Triệu chứng, điều trị và tiên số lượng

Ung thư vú thời kỳ II thuộc ung thư vú thời kỳ sớm. Tỷ lệ sống sau 5 năm của ung thư vú thời kỳ II là tầm khoảng 88-93%.  

ung thư vú giai đoạn 2

Ung thư vú thời kỳ II là như thế nào?

Ung thư vú thời kỳ II là nhóm ung thư tiến triển ở vú hoặc trong các hạch bạch huyết vùng nách cùng bên hoặc cả hai. Ung thư vú thời kỳ I tới ung thư vú thời kỳ IIA có thể được phân vào nhóm “thời kỳ đầu” của căn bệnh; ung thư vú thời kỳ IIB tới thời kỳ III có thể được phân vào nhóm “ung thư vú tiến triển tại chỗ tại vùng”.

Phân loại ung thư vú thời kỳ II

Hệ thống phân thời kỳ TNM là viết tắt của u bướu (Tumor), Hạch (Node), Di căn (Metastasis). (1)

  • T (Tumor): Mô tả kích thước và tính hoạt chất của u bướu.
  • N (Node): Mô tả tình trạng di căn của căn bệnh ung thư tới các hạch bạch huyết tại vùng.
  • M (Metastasis): Mô tả tình trạng di căn của căn bệnh ung thư tới các cơ quan không không khác trong cơ thể.

thời kỳ TNM của Ung thư vú:

 thời kỳ TNM (AJCC 8)
 T (Tumor): U nguyên phát
Tx  Không thể nhận xét được u bướu nguyên phát.
T0  Không tìm xuất hiện bằng chứng u bướu nguyên phát.
 T1  u bướu có đường kính lớn nhất không quá 2cm.
T2  Đường kính của u bướu lớn nhất là hơn 2cm và nhỏ hơn hoặc bằng 5cm.
T3  u bướu có đường kính lớn nhất hơn 5cm.
T4   u bướu với tất cả kích thước tuy vậy kèm theo xâm lấn trực tiếp tới thành ngực và/hoặc da gây nên loét, da sần như vỏ cam hoặc nốt trên da.
 N (Node): Hạch vùng
Nx  Hạch vùng không thể nhận xét được. Ví dụ như hạch từng được loại bỏ trước đó.
N0  Không có di căn tới hạch vùng. Điều này được xác định trên chẩn đoán hình ảnh hoặc thăm thăm khám lâm sàng.
N1  Có di căn hạch nách cùng bên với vú mắc phải ung thư; hạch di động.
N2  Có di căn hạch nách cùng bên với vú mắc phải ung thư. tuy vậy trên lâm sàng, hạch nách mắc phải dính vào nhau hoặc dính vào tổ chức không không khác. Hoặc chỉ di căn hạch vú trong cùng bên với vú mắc phải ung thư tuy vậy không có bằng chứng trên lâm sàng về di căn hạch nách.
N3  Di căn hạch dưới đòn cùng bên với vú mắc phải ung thư có hoặc không kèm theo di căn hạch nách; hoặc di căn hạch vú trong cùng bên với vú mắc phải ung thư có kèm di căn hạch nách; hoặc di căn hạch vùng trên đòn cùng bên với vú mắc phải ung thư có hoặc không kèm theo di căn hạch vú trong hoặc hạch nách.
 M (Metastasis): Di căn xa
M0  Không có dấu hiệu lâm sàng và bằng chứng hình ảnh của di căn xa.
M1  Lâm sàng và các phương tiện chẩn đoán hình ảnh phát hiện ung thư di căn xa.

Ung thư vú thời kỳ IIA

Ung thư vú thời kỳ IIA gồm các nhóm người mắc căn bệnh được nhận xét theo TNM là T0 N1 M0, hoặc T1 N1 M0, hoặc T2 N0 M0. (2)

Ung thư vú thời kỳ IIB

Ung thư vú thời kỳ IIA gồm các nhóm người mắc căn bệnh được nhận xét theo TNM là T2 N1 M0; T3 N0 M0

Triệu chứng căn bệnh ung thư vú thời kỳ II

Khi mắc phải ung thư vú thời kỳ II, người căn bệnh có thể gặp một vài triệu chứng như:

  • Một u bướu ở vú hoặc nách.
  • thế đổi kích thước hoặc hình loại của vú.
triệu chứng ung thư vú giai đoạn 2

Với ung thư vú thời kỳ II, người mắc căn bệnh có thể sờ xuất hiện u bướu ở vú hoặc nách cùng bên.

Theo BS.CKII Trần Thị Thiên Hương,​​ khoa Ung bướu BVĐK Hưng Thịnh TP.HCM, thời kỳ của ung thư cho rằng kích thước – tình trạng xâm lấn của u bướu ác tính và tình trạng di căn. Dựa vào thời kỳ ung thư và tính hoạt chất sinh học của u bướu, bác sĩ có thể đưa ra phương pháp điều trị phù hợp. 

Để xác định thời kỳ căn bệnh, ngoài các xét nghiệm để chẩn đoán căn bệnh như siêu âm vú, nhũ ảnh, chụp MRI vú, sinh thiết tổn thương vú, người mắc căn bệnh nên thực hiện thêm một vài phương pháp kiểm tra toàn thân không không khác như: siêu âm bụng, siêu âm cổ, X-quang ngực hoặc CT scan bụng, CT scan ngực, CT scan não, xạ hình xương… (tùy thuộc tình trạng u bướu, sinh học u và triệu chứng các cơ quan). 

Để biết tính hoạt chất sinh học của u bướu, trên mẫu căn bệnh phẩm từng xác định ung thư nên thực hiện thêm các xét nghiệm xác định tình trạng thụ thể nội tiết Estrogen (ER), Progesteron (PR), thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì (HER2), nhận xét tình trạng tăng sinh tế bào (Ki67) hoặc đột biến gen BRCA (trên mẫu căn bệnh phẩm từng xác định ung thư, hoặc trong máu).

Ngoài ra người căn bệnh cũng nên nhận xét các căn bệnh kèm theo để có thể phối hợp điều trị an toàn nhất.

Các phương pháp điều trị ung thư vú thời kỳ II

Bác sĩ Trần Thị Thiên Hương cho rằng, thời kỳ ung thư vú và tính hoạt chất sinh học của u bướu là yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định điều trị cho người mắc căn bệnh. Phần lớn phụ nữ ung thư vú ở thời kỳ II, tùy thuộc tình trạng sinh học của u bướu và di căn hạch sẽ được điều trị phối hợp tiểu phẫu, liệu pháp toàn thân (hóa trị, liệu pháp nội tiết, liệu pháp nhắm trúng đích) và xạ trị. (3)

Các phương pháp điều trị ung thư vú thời kỳ II gồm:

Liệu pháp điều trị tại chỗ (tiểu phẫu và xạ trị)

Ung thư vú thời kỳ II được điều trị bằng tiểu phẫu bảo tồn vú, hoặc loại bỏ vú (đoạn nhũ) có thể kèm theo tái tạo vú. 

tiểu phẫu bảo tồn vú 

Để bảo tồn vú, bác sĩ sẽ tiểu phẫu cắt rộng u bướu, cắt 1/4 hoặc loại bỏ một phần mô lành không mắc phải ung thư xung quanh u bướu, giữ lại được một phần mô vú. 

Sau tiểu phẫu bảo tồn, người mắc căn bệnh sẽ được chỉ định xạ trị vào toàn bộ tuyến vú để ngăn tái phát căn bệnh.

Không có chỉ định tiểu phẫu bảo tồn vú cho các trường hợp: căn bệnh nhiều u bướu ở các phần tư vú không không khác nhau, kích thước u lớn so với mô vú, hình ảnh vi vôi hóa ác tính lan rộng, từng từng xạ trị thành ngực (do căn bệnh không không khác) có tác động tới mô vú, đang có thai…

tiểu phẫu loại bỏ tuyến vú (đoạn nhũ)

Đây là tiểu phẫu loại bỏ toàn bộ tuyến vú có u bướu, có thể giữ lại núm vú và da xung quanh núm vú tùy thuộc vào vị trí, kích thước, số số lượng và tính hoạt chất u bướu. Phương pháp này được chỉ định cho các trường hợp ung thư vú không thể tiểu phẫu bảo tồn thường những trường hợp xin muốn được tiểu phẫu loại bỏ tuyến vú.

tiểu phẫu nạo vét hạch nách hoặc sinh thiết hạch lính gác (hạch gác cửa)

  • tiểu phẫu nạo vét hạch nách: Được chỉ định trong các trường hợp ung thư vú xâm lấn, có hạch nách phát hiện khi kiểm tra hoặc bằng các phương pháp cận lâm sàng; hoặc các trường hợp ung thư vú tiến triển tại chỗ, ung thư vú loại viêm sau khi hóa trị. tiểu phẫu nạo vét hạch nách giúp cho kiểm soát căn bệnh, giảm sút tái phát hạch nách và tiên số lượng căn bệnh. Phương pháp này thường gây nên tác dụng phụ như phù tay, tổn thương thần kinh, giảm sút công dụng vận động vùng vai cùng bên nạo hạch nách.
  • Sinh thiết hạch lính gác (hạch gác cửa): Các hạch lính gác là hạch bạch huyết đầu tiên mà các tế bào ung thư tiếp cận nếu chúng di căn, là một phần của các hạch bạch huyết vùng nách. Nếu có từ ba hạch lính gác dương tính với tế bào ung thư, người mắc căn bệnh sẽ được tiến hành nạo hạch nách. Phương pháp này giúp cho giảm sút bớt việc phải nạo vét hạch nách, hạn chế được các tác dụng phụ do nạo vét hạch nách. Sinh thiết hạch lính gác được chỉ định cho các trường hợp ung thư vú xâm lấn thời kỳ sớm, không ghi nhận hạch nách di căn khi kiểm tra hoặc các xét nghiệm kiểm tra; hoặc chỉ định trong các trường hợp ung thư vú tại chỗ trước khi tiểu phẫu loại bỏ tuyến vú. Bác sĩ sẽ thực hiện quy trình sinh thiết hạch lính gác bằng phối hợp đồng vị phóng xạ và thuốc nhuộm màu xanh lam để phát hiện các hạch lính gác nếu có, sau đó kiểm tra trong phòng thí nghiệm để xem các hạch này có dương tính với tế bào ung thư thường không. 

tiểu phẫu tái tạo vú (tạo hình)

Đây là tiểu phẫu để tạo vú mới có hình loại không khác với vú cũ và tương xứng với vú đối bên bằng cách đặt túi độn hoặc dùng các mô từ cơ quan không không khác của cơ thể. Việc tái tạo có thể được thực hiện cùng lúc với tiểu phẫu bảo tồn vú hoặc tiểu phẫu loại bỏ vú (tái tạo tức thì), hoặc có thể được thực hiện sau khi hoàn tất các phương pháp điều trị ung thư vú (tái tạo trì hoãn).

Xạ trị

Xạ trị vú – thành ngực sau tiểu phẫu đóng vai trò quan trọng trong việc kiểm soát ung thư tại chỗ, giúp cho giảm sút nguy cơ tái phát ung thư. 

Xạ trị vú – thành ngực thường được thực hiện một tháng sau khi tiểu phẫu hoặc hóa trị để cơ thể có thời gian phục hồi. 

Chỉ định: Hỗ trợ sau tiểu phẫu để giảm sút nguy cơ tái phát tại chỗ tại vùng. Phương pháp này được chỉ định sau tiểu phẫu bảo tồn vú, sau cắt toàn bộ tuyến vú với những trường hợp nguy cơ tái phát cao (u bướu >5cm, nhiều u bướu hoặc u bướu xâm lấn da-thành ngực, các hạch bạch huyết tại vùng mắc phải di căn). (4)

Các hình thức xạ trị:

  • Xạ trị vú: Xạ trị vào toàn bộ mô tuyến vú.
  • Xạ trị thành ngực sau khi loại bỏ toàn bộ tuyến vú.
  • Xạ trị vào các hạch vùng: Xạ trị vào vùng hạch nách; hoặc có thể phối hợp xạ trị vào vùng hạch vú trong – hạch trên và dưới đòn cùng bên.

Liệu pháp điều trị toàn thân (hóa trị và các loại thuốc không không khác)

Là phương pháp điều trị bằng thuốc. Các loại thuốc có thể được dùng gồm hóa trị, liệu pháp nội tiết, liệu pháp nhắm trúng đích và miễn dịch. Có hai cách điều trị như sau: 

– Điều trị tân hỗ trợ trước tiểu phẫu: Nhằm giảm sút kích thước u bướu và hạch vùng, giúp cho tiểu phẫu thuận lợi hơn; tiêu diệt các di căn vi thể, giúp cho giảm sút nguy cơ tái phát căn bệnh và di căn xa.

Việc quyết định người mắc căn bệnh có nên điều trị tân hỗ trợ thường không, và điều trị với loại thuốc nào sẽ tùy thuộc vào các yếu tố như kích thước u bướu, tình trạng di căn hạch, đặc tính sinh học của u bướu, thể trạng của người mắc căn bệnh: 

  • Nếu HER2 dương tính: Hóa trị phối hợp với thuốc kháng HER2 (Trastuzumab +/- Pertuzumab).
  • Nếu HER2 âm tính: Hóa trị.
  • Nếu căn bệnh thuộc nhóm tam âm: Hóa trị cân nhắc phối hợp thuốc ức chế điểm miễn dịch Pembrolizumab.

– Điều trị hỗ trợ sau tiểu phẫu triệt để: Nhằm tiêu diệt các di căn vi thể, giúp cho giảm sút nguy cơ tái phát căn bệnh và di căn xa.

  • Nếu từng điều trị tân hỗ trợ bằng thuốc hóa trị phối hợp với thuốc kháng HER2: Sẽ tiếp tục liệu trình điều trị hỗ trợ với thuốc kháng HER2 sau mổ theo quy trình đủ 1 năm, hoặc đổi thuốc kháng HER2 (TDM-1) khi căn bệnh không đạt đáp ứng hoàn toàn (còn mô bướu sau tiểu phẫu).
  • Nếu thụ thể nội tiết ER PR âm tính, HER2 âm tính (nhóm tam âm), đáp ứng chưa hoàn toàn với hóa trị tân hỗ trợ có thường không thuốc ức chế điểm miễn dịch (còn mô bướu sau tiểu phẫu): Cân nhắc hóa trị tiếp Capecitabine hoặc thuốc nhắm trúng đích (Olaparib thường Pembrolizumab).
  • Nếu từng hoàn tất hóa trị tân hỗ trợ và không thuộc các nhóm trên: sẽ không hóa trị tiếp.
  • Nếu chưa điều trị tân hỗ trợ, tùy thuộc nhóm nguy cơ tái phát và sinh học của u bướu: Sẽ hóa trị hỗ trợ, có thể phối hợp thuốc kháng HER2 (Trastuzumab có thường không phối hợp Pertuzumab). 
  • Nếu thụ thể nội tiết ER PR dương tính: Dùng liệu pháp nội tiết hỗ trợ sau tiểu phẫu hoặc sau kết thúc hóa trị.
  • Nếu thụ thể nội tiết ER PR dương tính và thụ thể HER2 dương tính: Sau khi kết thúc điều trị Trastuzumab hỗ trợ, sẽ được cân nhắc điều trị phối hợp liệu pháp nội tiết + Neratinib trong 1 năm.
  • Nếu thụ thể nội tiết ER PR dương tính, HER2 âm tính và nguy cơ tái phát trung bình: Có thể thực hiện xét nghiệm phân tích gen (như Oncotype Dx trên mẫu u bướu) để xác định tình trạng lợi ích của hóa trị. 

Liệu pháp nội tiết hỗ trợ

Được chỉ định cho người mắc căn bệnh ung thư vú có thụ thể nội tiết ER hoặc PR dương tính, liệu pháp nội tiết hỗ trợ trong 5 năm hoặc nhiều hơn (tùy thuộc yếu tố nguy cơ), bắt đầu sau tiểu phẫu thường hoàn tất hóa trị, có thể điều trị song song với thuốc kháng HER2. 

Tùy theo tình trạng mãn kinh, bác sĩ sẽ lựa chọn lựa các phương pháp như: (5)

  • Chưa mãn kinh: Tamoxifen, có thể phối hợp cắt công dụng buồng trứng (bằng tiểu phẫu, xạ trị thường bằng thuốc).
  • từng mãn kinh hoặc từng cắt công dụng buồng trứng: Sử dụng nhóm thuốc ức chế Aromatase (Letrozole, Anastrozol, Exemestan); cân nhắc sử dụng thêm thuốc Biphosphonate hỗ trợ để giảm sút nguy cơ tái phát căn bệnh ở xương và biến cố trên xương.

Việc sử dụng các thuốc điều trị nội tiết có thể gây nên ra các tác dụng phụ như: Dày nội mạc tử cung, xuất huyết bộ phận sinh dục nữ thất thường, ung thư nội mạc tử cung (tỷ lệ rất thấp); giảm sút mật độ xương, loãng xương, huyết khối (cục máu đông),…

Theo dõi chăm sóc sau điều trị ung thư vú thời kỳ II

Sau khi kết thúc điều trị, người mắc căn bệnh nên được theo dõi trong ít nhất 5 năm bởi các chuyên gia chuyên khoa Ung Bướu. Lịch tái thăm khám thường là mỗi 3-4 tháng trong 2-3 năm đầu, sau đó là mỗi 4-6 tháng trong 2-3 năm tiếp theo. Lịch tái thăm khám này không cố định cho tất cả các người mắc căn bệnh, mà có thể được điều chỉnh tùy theo tình trạng nguy cơ và các yếu tố sức khỏe của từng người mắc căn bệnh. Trong thời gian này, người mắc căn bệnh có chỉ định dùng liệu pháp nội tiết hỗ trợ (thụ thể nội tiết ER PR dương tính) vẫn tiếp tục giữ việc dùng thuốc. 

Các kiểm tra cận lâm sàng trong thời gian tái thăm khám (xét nghiệm máu, siêu âm vú, nhũ ảnh, đo mật độ khoáng xương toàn thân, thăm khám phụ khoa, X-quang ngực thẳng, CT hoặc PET-CT…) có thể sẽ được chỉ định không không khác nhau ở từng người mắc căn bệnh, tùy theo các yếu tố như thời kỳ căn bệnh, các phương pháp điều trị ung thư vú từng và đang thực hiện, tình trạng sức khỏe, lứa tuổi, thời kỳ từng mãn kinh,… 

Ví dụ:

người mắc căn bệnh tiểu phẫu bảo tồn vú kèm xạ trị vú nên chụp nhũ ảnh kiểm tra mỗi năm, bắt đầu từ 6-12 tháng sau kết thúc xạ trị. người mắc căn bệnh điều trị hỗ trợ bằng Tamoxifen nên thăm khám phụ khoa kiểm tra ít nhất 1 lần/năm.

với người mắc căn bệnh từng hoàn tất quá trình điều trị, nên lưu ý theo dõi sức khỏe để sớm phát hiện các dấu hiệu và triệu chứng thất thường. Khi xuất hiện bất kỳ mối lo ngại nào, người mắc căn bệnh nên tới trung tâm y tế càng sớm, càng tốt.

bác sĩ tư vấn khám ung thư vú

Sau khi hoàn tất quá trình điều trị căn bệnh ung thư vú thời kỳ II, người mắc căn bệnh tiếp tục được bác sĩ theo dõi trong ít nhất 5 năm.

Tiên số lượng nguy cơ sống còn của người mắc căn bệnh ung thư vú thời kỳ II

Tỷ lệ sống còn phản ánh số người trung bình sẽ sống sót trong một thời điểm nhất định. Theo Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, tỷ lệ sống còn sau 5 năm với ung thư vú thời kỳ II là 88-93% với những phụ nữ từng hoàn thành điều trị.

thắc mắc thường gặp

Ung thư vú thời kỳ II có trị khỏi được không?

Sau 5 năm điều trị, người mắc căn bệnh ung thư vú không mắc phải tái phát sẽ được xem là trị khỏi căn bệnh. với ung thư vú thời kỳ II, nguy cơ trị khỏi căn bệnh rất cao. 

Ung thư vú thời kỳ II có nguy hiểm không?

Ung thư vú thời kỳ II được xếp vào thời kỳ sớm, nếu đáp ứng tốt với điều trị, tiên số lượng sống sót sau 5 năm tầm khoảng 88-93%. Điều này có nghĩa toàn bộ các người mắc căn bệnh mắc phải ung thư vú thời kỳ II có thể sống sót sau 5 năm nếu được điều trị sớm, hữu hiệu.  

nguy cơ tái phát ung thư vú sau khi điều trị ung thư vú thời kỳ II là bao nhiêu?

Ở những người mắc căn bệnh được điều trị bảo tồn vú, nguy cơ tái phát tại chỗ tầm khoảng 2% trong 10 năm. nguy cơ tái phát tại chỗ tùy thuộc vào đặc tính u bướu, hạch di căn, diện cắt, tuổi người mắc căn bệnh và kỹ thuật điều trị xạ trị sau mổ. 

Cũng tùy thuộc vào các đặc tính u bướu và tình trạng di căn hạch, nguy cơ tái phát cao nhất trong vòng vài năm đầu sau điều trị, tỷ lệ tái phát sau 5 năm và 10 năm là 11-19%.

HỆ THỐNG trung tâm y tế ĐA KHOA Hưng Thịnh

Bác sĩ Trần Thị Thiên Hương nhấn mạnh, với người mắc căn bệnh được chẩn đoán là ung thư vú thời kỳ II, triển vọng tương đối khả quan bởi vì những u bướu này vẫn có thể trị khỏi được. người mắc căn bệnh nên tới các trung tâm y tế uy tín, có trang thiết mắc phải, công nghệ tiên tiến, có chuyên khoa Ung bướu, để được hội chẩn và lập kế hoạch điều trị theo quy trình cá thể hóa, tối ưu hữu hiệu, giúp cho trị khỏi căn bệnh và nâng cao tin cậy sống.

Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.