Ung thư cổ tử cung được chia thành các thời kỳ 1-4, chẩn đoán sớm tỷ lệ sống sau 5 năm lên tới 92%.
Cổ tử cung là một ống rỗng nhỏ nối tử cung với bộ phận sinh dục nữ. Theo Tổ chức Y tế Thế giới, ung thư cổ tử cung là loại ung thư thường gặp ở nữ giới, thường xảy ra từ trên 30 tuổi. Nguyên nhân chủ yếu là nhiễm virus u nhú ở người (HPV) lây truyền truyền qua vận động tình dục. Đây thường là loại ung thư tiến triển trễ, do đó tầm soát thường xuyên rất quan trọng.
Ung thư cổ tử cung được chia thành 4 thời kỳ, dựa trên hệ thống phân loại của Liên đoàn Sản phụ khoa Quốc tế (FIGO). Các thời kỳ này được phân loại theo kích thước u bướu và tình trạng lan rộng của ung thư ra ngoài cổ tử cung.
thời kỳ một
Ở thời kỳ này, các tế bào ung thư từng tiến triển và lan từ bề mặt cổ tử cung vào các mô sâu hơn bên trong. Song ung thư vẫn khu trú, chưa lan ra ngoài cổ tử cung vào hạch bạch huyết hoặc các cơ quan không tương tự. u bướu có kích thước từ dưới 3 mm tới khoảng tầm 4 cm.
Người căn bệnh thường không có triệu chứng. Nếu được phát hiện, ung thư cổ tử cung thời kỳ một có nguy cơ điều trị cao và có tiên số lượng tốt. Tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm là khoảng tầm 92%, theo Hiệp hội Ung thư Mỹ.
Các phương pháp điều trị ung thư cổ tử cung thời kỳ một tùy thuộc vào xin muốn giữ nguy cơ sinh sản của người căn bệnh, cũng như tình trạng lan rộng của tế bào ung thư vào máu, mạch bạch huyết hoặc các mô gần đó. Người muốn bảo tồn nguy cơ sinh sản thường được điều trị bằng phương pháp sinh thiết hình nón, tức tiểu phẫu cắt đi phần mô hình nón khỏi cổ tử cung. Nếu không có tế bào ung thư, người căn bệnh không nên điều trị thêm, tuy nhiên nên theo dõi chặt chẽ để phát hiện nguy cơ căn bệnh tái phát.
Trường hợp không có nhu cầu mang thai trong tương lai, người căn bệnh có thể được cắt đi tử cung tử cung và cổ tử cung. Phương pháp này chỉ được khuyến nghị nếu ung thư chưa lan vào mao mạch hoặc mạch bạch huyết. Nếu người căn bệnh không muốn tiểu phẫu hoặc thiếu khỏe mạnh để tiểu phẫu, hóa trị phối hợp xạ trị có thể được sử dụng như phương pháp điều trị thế thế.
thời kỳ hai
Ung thư từng lan ra ngoài cổ tử cung và tử cung, tuy nhiên chưa lan vào hạch bạch huyết, thành chậu hoặc phần dưới của bộ phận sinh dục nữ, các cơ quan hoặc vùng xa trong cơ thể. u bướu nhỏ hơn hoặc lớn hơn 4 cm. Các triệu chứng có thể xảy ra như đau đớn hoặc ra máu sau khi giao hợp, đau đớn vùng chậu, ra máu sau khi mãn kinh, ra máu giữa các kỳ kinh, vòng kinh nguyệt lâu dần hơn hoặc nhiều hơn, dịch tiết bộ phận sinh dục nữ thỉnh thoảng có máu. Ung thư cổ tử cung thời kỳ 2 có thể điều trị và chữa trị khỏi. Tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm khoảng tầm 61%, theo Trung tâm Ung thư Đại học Kansas, Mỹ.
Người căn bệnh thường được điều trị bằng cách cắt đi toàn bộ tử cung, cộng với cắt đi hạch bạch huyết vùng chậu và lấy mẫu hạch bạch huyết quanh động mạch chủ. Nếu ung thư từng lan tới các hạch bạch huyết hoặc các mô gần đó, bác sĩ có thể khuyến cáo xạ trị sau tiểu phẫu. Trong một tỷ lệ, bác sĩ có thể xạ trị, có hoặc không kèm hóa trị, thế vì tiểu phẫu cho người căn bệnh.
Ở cuối thời kỳ hai, ung thư từng lan ra ngoài cổ tử cung vào các mô vùng chậu xung quanh như phần trên của bộ phận sinh dục nữ, bọng đái hoặc trực tràng. thời kỳ này được gọi là ung thư cổ tử cung tiến triển tại chỗ. Ung thư cổ tử cung ở thời kỳ này thường được điều trị bằng hóa xạ trị.
thời kỳ ba
Ung thư từng lan vào phần dưới bộ phận sinh dục nữ hoặc thành chậu. Ung thư có thể hoặc không lan vào các hạch bạch huyết gần đó, chưa lan tới các cơ quan hoặc vùng xa của cơ thể. u bướu có thể đủ lớn để chặn các ống dẫn nước tiểu từ thận tới bọng đái (niệu quản), gây nên thận ứ nước.
Các triệu chứng gồm không dễ dàng tiểu tiện hoặc đi đi ngoài, chân sưng, đau đớn khi quan hệ tình dục, máu trong nước tiểu, sụt cân không rõ nguyên nhân, đau đớn vùng eo lưng. Vì ung thư thời kỳ này từng lan rộng nên tỷ lệ sống sót sau 5 năm ước tính là 32-35%, theo Trung tâm Ung thư Đại học Kansas, Mỹ. Người căn bệnh thường được điều trị bằng hóa xạ trị.
thời kỳ 4
Đây là thời kỳ ung thư cổ tử cung tiến triển nhất. Ung thư cổ tử cung tái phát thường nằm trong thời kỳ này. Ở thời kỳ 4, các tế bào ung thư từng di căn tới các cơ quan lân cận hoặc các vùng không tương tự của cơ thể như bọng đái hoặc trực tràng, thậm chí gan, phổi hoặc xương.
Các triệu chứng có thể gồm mệt mỏi hoặc kiệt sức, chóng mặt, đau đớn xương hoặc gãy xương, lỗ rò bộ phận sinh dục nữ (một lỗ nối bộ phận sinh dục nữ và trực tràng), không dễ dàng thở, khạc ra máu.
Ung thư ở thời kỳ này thường không được xem là có thể chữa trị khỏi. Các phương pháp điều trị có thể gồm xạ trị, có hoặc không có hóa trị. Liệu pháp nhắm mục tiêu và liệu pháp miễn dịch cũng có thể được sử dụng. Tỷ lệ sống sót tương đối sau 5 năm với ung thư cổ tử cung thời kỳ 4 là khoảng tầm 17%, theo Trung tâm Ung thư Đại học Kansas, Mỹ.
Các phương pháp điều trị ung thư cổ tử cung có thể gây nên các tác dụng phụ gồm buồn nôn, mệt mỏi và bầm tím nhiều hơn. Người căn bệnh có thể mãn kinh sớm hoặc kinh nguyệt không đều.
một vài phụ nữ mắc ung thư cổ tử cung có sức khỏe tốt sau khi kết thúc quá trình điều trị, cũng có trường hợp không tương tự sống chung với căn bệnh suốt quãng đời còn lại. Người căn bệnh nên tuân thủ tái kiểm tra và xét nghiệm theo chỉ định của bác sĩ, theo dõi triệu chứng mới để điều trị nhanh chóng khi nên thiết.
Anh Ngọc (Theo Verywell Health)