9 hệ lụy sốt xuất huyết nguy hiểm người chứng bệnh cần thiết phải lưu ý

Sốt xuất huyết là căn chứng bệnh muỗi truyền, diễn tiến rất không dễ lường, có thể gây ra ra những tác động tiêu cực lan rộng tới các cơ quan, nội tạng, hệ lụy sốt xuất huyết nghiêm trọng về tim mạch, phổi, suy đa tạng, xuất huyết não… Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng dịch chứng bệnh (CDC Hoa Kỳ), có tầm khoảng 1 trong 20 người mắc sốt xuất huyết mắc phải chuyển biến nặng, dẫn tới sốc, ra máu bên trong và tử vong.

Bài viết được tư vấn bởi BS.CKI Nguyễn Tiến Đạo, Quản lý Y khoa Vùng 4 – Hồ Chí Minh, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC.

biến chứng sốt xuất huyết

Dấu hiệu nhận biết tình trạng sốt xuất huyết trở nặng

Trung tâm Kiểm soát và Phòng dịch chứng bệnh (CDC Hoa Kỳ) khuyến cáo, các dấu hiệu nhận biết tình trạng trở nặng hoặc gây ra ra hệ lụy sốt xuất huyết có thể gặp gồm ra máu ở nướu, chân răng, ra máu từ mũi, nôn ra máu hoặc có máu trong phân, nôn ít nhất 3 lần trong một ngày [1], đau đớn bụng hoặc đau đớn tức, cảm xuất hiện rất mệt mỏi hoặc bồn chồn. Khi có các dấu hiệu cảnh báo, người chứng bệnh cần thiết phải tới ngay địa điểm y tế gần nhất để được can thiệp và điều trị sớm.

Sốt xuất huyết (Dengue Fever) là chứng bệnh nhiễm trùng do virus Dengue lây nhiễm truyền thông qua vết đốt của muỗi (chủ yếu là muỗi vằn cái Aedes aegypti) mang virus gây ra chứng bệnh, thường lưu hành ở vùng có khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới trên toàn thế giới, chủ yếu ở khu vực thành thị hoặc bán thành thị. Sốt xuất huyết là căn chứng bệnh thường gặp khi ước tính 1 nửa dân số trên thế giới có nguy cơ mắc chứng bệnh, ghi nhận tầm khoảng 100 – 400 triệu ca mắc chứng bệnh mỗi năm [2].

banner tâm anh quận 7 content

Trong toàn bộ các trường hợp, chứng bệnh sốt xuất huyết có thể tự phục hồi trong vòng 7 ngày hoặc lâu hơn, tùy vào thể trạng của người chứng bệnh và tình trạng nghiêm trọng của các triệu chứng. Tuy nhiên, với những người thuộc nhóm nguy cơ cao, nếu không được theo dõi và điều trị đúng cách, có thể dẫn tới tình trạng sốc sốt xuất huyết, hệ lụy sốt xuất huyết nguy hiểm như hạ tiểu cầu, cô đặc máu, tràn dịch màng phổi, suy đa tạng…, thậm chí thiệt mạng.

BS.CKI Nguyễn Tiến Đạo, Quản lý Y khoa Vùng 4 – Hồ Chí Minh, Hệ thống Trung tâm tiêm chủng VNVC cho rằng: “Sốt xuất huyết với hơn 100 triệu ca mắc mỗi năm và 20.000 – 25.000 ca tử vong, là một thách thức đáng nhắc với sức khỏe cộng đồng, đánh dấu qua các đợt dịch ở nhiều khu vực không không khác nhau trên toàn cầu nói chung và tại Việt Nam nói riêng. dấu hiệu của chứng bệnh sốt xuất huyết rất rộng, từ nhiễm trùng không triệu chứng hoặc nhẹ tới hội chứng sốc nặng và suy đa cơ quan như tổn thương gan, tiêu cơ vân, ức chế cơ tim…”

Tiến sĩ Joshua Wong, người đứng đầu nhóm chăm sóc lâm sàng của CDC ứng phó với đợt trỗi dậy dịch tại Puerto Rico, cho rằng “Khi sốt suy yếu, đó chuẩn xác là lúc người chứng bệnh cần thiết phải được bác sĩ kiểm tra và theo dõi các dấu hiệu hoặc triệu chứng, để phát hiện sớm nguy cơ sốt xuất huyết trở nặng, nhất là khi sốt xuất huyết bắt đầu trở nên nghiêm trọng thường tiến triển rất nhanh chóng, chỉ trong một vài giờ “.

banner vacxin sốt xuất huyết ads post

Sau khi sốt suy yếu, tức là thời kỳ sốt từng kết thúc, đánh dấu cho sự chuyển biến của chứng bệnh sang thời kỳ nặng – thời kỳ xuất huyết, tiềm ẩn rất nhiều nguy cơ hệ lụy nghiêm trọng. Đây cũng là một trong những dấu hiệu nhận biết tình trạng sốt xuất huyết trở nặng mà người dân cần thiết phải lưu ý.

Theo đó, sốt xuất huyết thường diễn biến qua 3 thời kỳ gồm sốt, nguy hiểm và phục hồi:

  • thời kỳ sốt: sốt cao đột ngột, liên tục, lâu dần kèm theo các triệu chứng chán ăn, buồn nôn. Nền da xuất hiệu tình trạng xung huyết kéo theo đau đớn cơ, đau đớn khớp và đau đớn 2 mắt. Đồng thời, người chứng bệnh có thể mắc phải ra máu cam, ra máu chân răng;
  • thời kỳ nguy hiểm: Thường xảy ra từ ngày thứ 4 của chứng bệnh. người chứng bệnh có thể còn hoặc từng suy yếu sốt, số số lượng tiểu cầu thường suy yếu đáng nhắc trong thời kỳ này, cần thiết phải đặc biệt lưu ý;
  • thời kỳ phục hồi: Vào ngày thứ 8 – 9, mức tiểu cầu trở lại mức thông thường, cơ thể người chứng bệnh có thể nổi các nốt ban ngứa ngáy trên da trong vài ngày.
sau hạ sốt dễ gây xuất hiện biến chứng
Thường khi hạ sốt là thời điểm dễ xuất hiện các hệ lụy sốt xuất huyết nghiêm trọng.

hệ lụy sốt xuất huyết thông thường

1. Hạ tiểu cầu

Hạ tiểu cầu là một dấu hiệu lâm sàng rất thường gặp ở chứng bệnh sốt xuất huyết, luôn được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) sử dụng là một trong những tiêu chí xác định tiềm ẩn về tình trạng nghiêm trọng của chứng bệnh lâm sàng.

Tiểu cầu là tế bào máu có kích thước rất nhỏ, với đường kính chỉ bằng 20% hồng cầu, có vai trò quan trọng trong quá trình đông máu, tạo cục máu đông và tác dụng chủ yếu là cầm máu trong cơ thể. Chỉ số tiểu cầu thông thường trong máu là 150.000 – 400.000 tiểu cầu/μl máu, trung bình là 200.000 tiểu cầu/μl máu. người chứng bệnh sốt xuất huyết được phản hồi là hạ tiểu cầu khi số số lượng tiểu cầu suy yếu nhanh, dưới mức 150.000 tiểu cầu/μl máu [3].

Tiểu cầu được sản xuất trong tủy xương và giải phóng vào máu. Trong trường hợp mắc phải tổn thương, tiểu cầu sẽ nhanh chóng tới vị trí đó để tạo ra “nút chặn” ngăn máu chảy quá nhiều. Nguyên nhân gây ra ra tình trạng suy yếu tiểu cầu khi mắc phải sốt xuất huyết là do virus gây ra chứng bệnh tác động trực tiếp vào tủy xương; các kháng thể được tạo ra trong thời kỳ chứng bệnh từng phá hủy một vài lượng lớn tiểu cầu; tăng kết dính tiểu cầu với các tế bào nội mạch; tiểu cầu mắc phải tế bào thực bào phá hủy.

hạ tiểu cầu là biểu hiện lâm sàng
Hạ tiểu cầu là một hệ lụy sốt xuất huyết thông thường.

2. Cô đặc máu

Theo bác sĩ, người chứng bệnh mắc sốt xuất huyết, nếu từng qua ngày thứ 5 – 6 mà không xuất hiện tình trạng cô đặc máu và thể trạng tỉnh táo thì dù tiểu cầu hạ thấp cũng không cần thiết phải phải truyền tiểu cầu và có thể được xuất viện. Trong toàn bộ các trường hợp suy yếu tiểu cầu, thậm chí xuống rất thấp, cũng không gây ra xuất huyết và sau đó đều tự phục hồi sau 7 – 10 ngày.

Trong khi các trường hợp tử vong thường do tới viện muộn, máu từng mắc phải cô đặc gây ra sốc suy yếu thể tích, rối loạn đông máu và suy đa tạng. Lúc này việc điều trị rất không dễ khăn và nguy cơ tử vong cao.

Do đó, trường hợp sốt xuất huyết hạ tiểu cầu hầu như không tác động tới tình trạng nặng của chứng bệnh vì suy yếu tiểu cầu có thể tự phục hồi, nhưng mà tình trạng rối loạn huyết động do cô đặc máu sẽ dẫn tới sốc, rất không dễ điều trị, nguy cơ tử vong rất cao.

>> Tham khảo thêm về: Sai lầm khi điều trị sốt xuất huyết

hệ lụy sốt xuất huyết nặng cần thiết phải lưu ý

1. Xuất huyết thất thường do rối loạn đông máu

Rối loạn đông máu là một hệ lụy sốt xuất huyết nặng cần thiết phải lưu ý. Tình trạng này thực hiện cơ thể mất kiểm soát trong quá trình đông máu, lòng mạch xuất hiện những cục máu li ti, thực hiện tắc vi mạch và suy đa phủ tạng. Nguyên nhân gây ra ra thường là do số lượng tiểu cầu quá ít thường hay mắc phải suy suy yếu tác dụng hoặc thiếu hụt các yếu tố đông máu. Do đó, khi mắc phải sốt xuất huyết, người chứng bệnh thường sẽ suy suy yếu số lượng tiểu cầu đáng nhắc trong cơ thể, gây ra ra tình trạng rối loạn đông máu.

chứng bệnh sốt xuất huyết được chia thành 4 tình trạng:

  • Độ 1: Sốt cao, mệt mỏi, toát mồ hôi, nhức đầu, chán ăn, buồn nôn;
  • Độ 2: Phát ban đỏ mọc thành đám, mảng, ra máu chân răng, ra máu mũi;
  • Độ 3: Vật vã, li bì, xuất huyết nặng trong hệ tiêu hóa và bộ phận sinh dục nữ, suy tuần hoàn, mạch đập nhanh, tụt huyết áp, da lạnh và ẩm;
  • Độ 4: Suy đa tạng, xuất huyết nội tạng, sốc nặng, không đo được mạch.

Ở cấp độ 1 và 2, người chứng bệnh sốt xuất huyết sẽ xuất hiện các yếu tố đông máu, mắc phải kích hoạt thực hiện tăng đông máu. nhưng mà khi chuyển sang độ 3 và 4, máu sẽ suy yếu đông và suy suy yếu tiểu cầu và các yếu tố đông máu. Vì vậy, nếu được can thiệp và ngăn ngừa rối loạn đông máu sớm, chứng bệnh sốt xuất huyết sẽ không chuyển sang độ 3 – 4 và nhanh phục hồi, tránh diễn biến nặng dẫn tới tử vong.

2. Sốc do thiếu máu

Sốc là một trong những hệ lụy sốt xuất huyết nguy hiểm nhất, gây ra ra hiện tượng ra máu ồ ạt, tăng tính thấm thành mạch, dẫn tới suy yếu thể tích nội mạch, cô đặc máu dẫn tới sốc (huyết áp rất thấp). Với hệ lụy sốc do thiếu máu, người chứng bệnh có thể dấu hiệu ra ngoài với các triệu chứng ra máu nhiều như ra máu chân răng, ra máu cam, ra máu qua các vết thương hở.

Theo các chuyên gia, sốc ở chứng bệnh sốt xuất huyết có thể khởi phát đột ngột và tiến triển dai dẳng. Cơ chế sinh chứng bệnh của sốc ở chứng bệnh sốt xuất huyết rất phức tạp, thường xảy ra vào ngày thứ 3 – 4 của chứng bệnh và số lượng tiểu cầu suy yếu dưới mức 100.000 tiểu cầu/μl máu [4]. Trong hội chứng sốc cổ điển, tăng tính thấm mao mạch dẫn tới mất dịch ở khoang thứ ba, dẫn tới tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng ngoài tim, tràn dịch màng bụng, phù phổi…

sốc do mất máu gây chảy máu ồ ạt
Sốc do thiếu máu là một trong những hệ lụy sốt xuất huyết gây ra ra hiện tượng ra máu ồ ạt, tăng tính thấm thành mạch, dẫn tới suy yếu thể tích nội mạch, cô đặc máu dẫn tới sốc (huyết áp rất thấp).

3. Hôn mê

Khi người chứng bệnh mắc phải xuất huyết trong cơ thể, dịch huyết tương có thể tồn đọng ở màng não qua các thành mạch gây ra phù não và các hội chứng thần kinh dẫn tới hôn mê. Những hệ lụy sốt xuất huyết sự liên quan tới não thường không thường gặp, chỉ chiếm 0,5% trong số 5.400 người chứng bệnh nhập viện vì sốt xuất huyết trong một nghiên cứu của Cam và cộng sự báo cáo, nhưng mà lại rất nguy hiểm.

Một trường hợp thực tế ở Ấn Độ, một phụ nữ (68 tuổi) có dấu hiệu sốt và đau đớn cơ trong 4 ngày, sau đó cảm giác mắc phải thế đổi trong 1 ngày. Khi phát hiện chứng bệnh và đưa tới địa điểm y tế thì bà từng trong tình trạng hôn mê với hiện tượng sốt cao (39 độ C), xung huyết kết mạc nhẹ và gan lách to.

Xét nghiệm kháng thể IgM đặc hiệu sốt xuất huyết cho ra kết quả dương tính. Chụp cắt lớp vi tính không cản quang ở não cho xuất hiện nhiều khối máu tụ, được xác định rõ trong nhu mô não và cầu não với phù nề xung quanh. người chứng bệnh từng không qua khỏi tình trạng nhiễm trùng và tử vong vào ngày thứ ba sau khi nhập viện.

4. Tràn dịch màng phổi

Theo ước tính, các hệ lụy sốt xuất huyết dẫn tới suy hô hấp cấp tính thường tiến triển ở tầm khoảng 1,8% ca nhiễm sốt xuất huyết, trong số đó tràn dịch màng phổi là thường gặp nhất. Trong những ngày đầu, người chứng bệnh sốt xuất huyết thường có triệu chứng sốt cao, nôn và tiêu chảy gây ra mất nước, cần thiết phải được truyền dịch để bù lại số lượng nước và điện giải từng mất, tránh hiện tượng cô đặc máu.

Tuy nhiên, ở thời kỳ tiếp theo của chứng bệnh, khi bắt đầu xuất hiện tình trạng tăng tính thấm thành mạch, thoát dịch ra ngoài thì người chứng bệnh cần thiết phải truyền dung dịch cao phân tử để kéo dịch trở lại lòng mạch, đồng thời tăng cường đào thải dịch ra ngoài bằng các thuốc lợi tiểu.

Nếu trong thời kỳ này, người chứng bệnh không tăng cường hỗ trợ thải dịch ra ngoài thì nguy cơ dịch tràn vào phổi, gây ra viêm và phù phổi cấp. Nếu tình trạng tràn dịch màng phổi xảy ra ồ ạt có thể gây ra sốc tuần hoàn và dẫn tới suy đa cơ quan.

5. thận yếu cấp

Tổn thương thận cấp tính là một trong những hệ lụy sốt xuất huyết nguy hiểm, thậm chí có nguy cơ tiến triển thành chứng bệnh thận yếu mạn tính. Theo ước tính, trong số những người chứng bệnh sốt xuất huyết nặng phải nhập viện, có 3,3 – 4,8% trường hợp ghi nhận mắc phải thận yếu cấp, trong số đó 14,1% cần thiết phải phải chạy thận nhân tạo.

Cho tới hiện tại, cơ chế tổn thương thận do virus sốt xuất huyết gây ra ra vẫn chưa được xác định chuẩn xác, nhưng mà hậu quả do hệ lụy này gây ra lại tương đối nghiêm trọng. Thông thường, người chứng bệnh sốt xuất huyết tiến triển hệ lụy thận yếu cấp cần thiết phải phải nằm viện lâu hơn (trung bình tăng 3 ngày so với thông thường) và tỷ lệ tử vong cũng tăng cao đáng nhắc.

6. Suy đa tạng

Trong những trường hợp sốt xuất huyết trở nặng, hiện tượng rò rỉ huyết tương sâu và sốc suy yếu thể tích máu có thể dẫn tới suy đa cơ quan, đe dọa tính mạng của người chứng bệnh. dấu hiệu lâm sàng của suy đa tạng sẽ tùy thuộc vào cơ quan mắc phải tác động, cụ thể như sau:

  • thận yếu: dấu hiệu bằng tình trạng suy yếu số lượng nước tiểu (thiểu niệu hoặc vô niệu), tăng nồng độ creatinin và nitơ urê máu, mất cân bằng điện giải;
  • Suy gan: Vàng da, tăng men gan…;
  • Suy tim: Hạ huyết áp dai dẳng, loạn nhịp tim, rối loạn tác dụng tim;
  • Thần kinh trung ương: Co giật, hôn mê…

7. Xuất huyết não

Xuất huyết não, nhất là xuất huyết nội sọ là một trong những hệ lụy sốt xuất huyết nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong cao. Cơ chế gây ra chứng bệnh thường phối hợp từ đa yếu tố do sự tương tác phức tạp của các chứng bệnh lý mao mạch, chứng bệnh lý đông máu, rối loạn tác dụng tiểu cầu và suy yếu tiểu cầu. Ở người lớn, khi mắc chứng bệnh sốt xuất huyết, tỷ lệ xuất huyết não chiếm 1% trong sốt ca chứng bệnh, đây chủ yếu là nguyên nhân gây ra tử vong cao ở người lớn.

8. Tụt huyết áp, đau đớn đầu

Tụt huyết áp là triệu chứng thường gặp khi mắc phải sốt xuất huyết, gây ra ra do tình trạng rò rỉ huyết tương dẫn tới cạn kiệt khoang nội mạch và hạ huyết áp. Theo nghiên cứu Nhi Khoa tại Việt Nam, có 7% người chứng bệnh sốt xuất huyết nhập viện có huyết áp không ổn định, 26% người chứng bệnh mắc phải hạ huyết áp ở lứa tuổi trung bình là 10. với người lớn, hạ huyết áp có sự liên quan chặt chẽ tới nguy cơ sốt xuất huyết trở nặng và tử vong.

Sốt xuất huyết thường dấu hiệu lâm sàng với tình trạng sốt cao, buồn nôn, đau đớn cơ, đau đớn khớp và đau đớn đầu dữ dội. với triệu chứng đau đớn đầu thường được mô tả là những cơn đau đớn tức như “búa bổ” tại trán hoặc sau nhãn cầu, có tới 95% người chứng bệnh sốt xuất huyết sẽ xuất hiện tình trạng này. Tuy nhiên, đau đớn đầu do sốt xuất huyết có một vài đặc tính chung với chứng đau đớn nửa đầu, vì nó thường gây ra đau đớn nhói và thường sự liên quan tới buồn nôn, sợ ánh sáng và sợ tiếng ồn.

9. hệ lụy ở mắt

Theo báo cáo, các hệ lụy chứng bệnh sốt xuất huyết ở mắt do tình trạng suy yếu tiểu cầu và ra máu bên trong. thời điểm trung bình khi người chứng bệnh xuất hiện các triệu chứng về mắt sau khi sốt xuất huyết khởi phát là 7 ngày (dao động từ 1 – 28 ngày). một vài triệu chứng sự liên quan tới mắt khi mắc chứng bệnh sốt xuất huyết như mờ mắt, đau đớn mắt, đỏ mắt, rối loạn thị lực màu.

Các hệ lụy về mắt từ người chứng bệnh sốt xuất huyết thường gặp gồm: Xuất huyết dưới kết mạc, viêm màng bồ đào, xuất huyết dịch kính, thoái hóa điểm vàng, phù hoàng điểm, chứng bệnh thần kinh thị giác…

sốt xuất huyết gây biến chứng ở mắt
Các hệ lụy sốt xuất huyết ở người lớn tác động tới mắt như xuất huyết dưới kết mạc, viêm màng bồ đào, xuất huyết dịch kính, thoái hóa điểm vàng, phù hoàng điểm, chứng bệnh thần kinh thị giác…

hệ lụy của chứng bệnh sốt xuất huyết với phụ nữ mang thai

Theo nhiều nghiên cứu, phụ nữ mang thai mắc phải nhiễm sốt xuất huyết có nguy cơ cao tiến triển thành hội chứng sốc sốt xuất huyết gây ra nguy hiểm và tỷ lệ tử vong tăng gấp 3 lần thông thường. Đồng thời, các báo cáo gần đây sự liên quan tới nhiễm trùng virus Dengue ở người mẹ trong thai kỳ có thể dẫn tới tính trạng sinh non, trẻ nhẹ cân, thai chết lưu hoặc sảy thai.

1. lây nhiễm truyền virus cho bé

Trong thời gian mang thai, nhất là 3 tháng cuối thai kỳ, nếu cơ thể người mẹ mắc chứng bệnh sốt xuất huyết sẽ có nguy cơ cao truyền virus sang thai nhi. Theo nghiên cứu, virus gây ra chứng bệnh sốt xuất huyết có nguy cơ đi qua nhau thai và lây nhiễm nhiễm vào hệ tuần hoàn của thai nhi vào bất kỳ thời điểm nào trong thai kỳ nhưng mà xảy ra cao hơn ở những tháng cuối, trước khi sinh.

Nếu người mẹ mắc chứng bệnh sốt xuất huyết, trong quá trình chuyển dạ và sinh nở, nguy cơ cao em bé sẽ mắc chứng bệnh do tiếp xúc với máu của mẹ hoặc virus đi qua ống sinh.

2. Sinh non

Sốt xuất huyết ở phụ nữ mang thai có thể thúc đẩy quá trình chuyển dạ sớm và sinh non. Trong một nghiên cứu cho xuất hiện, 120 phụ nữ mang thai mắc phải nhiễm virus sốt xuất huyết sẽ có 10% trẻ sẽ mắc phải sinh non (tuổi thai dưới 37 tuần). Theo CDC Hoa Kỳ, trẻ sinh ra từ mẹ mắc chứng bệnh sốt xuất huyết trong thai kỳ (nhất là những tháng cuối hoặc trong quá trình sinh nở) có thể nhiễm chứng bệnh và tiến triển triệu chứng trong vòng 14 ngày sau khi sinh.

3. Trẻ mắc phải nhẹ cân

Phụ nữ mang thai mắc phải sốt xuất huyết có nguy cơ chuyển dạ sớm và trẻ sinh ra thường sẽ nhẹ cân hơn so với thông thường. Trẻ sơ sinh được sinh ra từ người mẹ mắc phải sốt xuất huyết nhẹ có tỷ lệ nhẹ cân là 67% và cực nhẹ cân là 133%.

Điều này tác động nặng nề tới sức khỏe và hệ miễn dịch của trẻ. Các nhà nghiên cứu cũng phát hiện rằng, trẻ được sinh ra từ mẹ mắc phải nhiễm sốt xuất huyết khi mang thai có nguy cơ phải nhập viện cao hơn 27% từ khi sinh ra cho tới 3 tuổi.

4. Sảy thai

Theo thống kê, có tới 20% trường hợp phụ nữ mang thai mắc phải sốt xuất huyết mắc phải sảy thai. Theo một nghiên cứu, trường hợp xảy thai ở mẹ bầu mắc phải sốt xuất huyết có thể xảy ra trong tam cá nguyệt đầu tiên. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có nghiên cứu và kết luận chặt chẽ về việc mắc phải nhiễm sốt xuất huyết trong thai kỳ sẽ thực hiện tăng nguy cơ sảy thai.

mang thai dễ gây biến chứng sốt xuất huyết
Phụ nữ mang khi nhiễm virus sốt xuất huyết có thể dẫn tới các hệ lụy sốt xuất huyết nghiêm trọng, tác động nặng nề tới sức khỏe cho cả mẹ và thai nhi.

Các hệ lụy của sốt xuất huyết có thể gây ra tử vong không?

Các hệ lụy của sốt xuất huyết có thể gây ra tử vong nếu không được can thiệp sớm và điều trị đúng cách, tỷ lệ tử vong có thể lên tới 10 – 20%. Tuy nhiên, nếu được phát hiện sớm và chăm sóc hỗ trợ phù hợp, tỷ lệ tử vong có thể suy yếu mạnh xuống còn 1%.

Các dấu hiệu cảnh báo có thể xảy ra hệ lụy sốt xuất huyết, có nguy cơ đe dọa tới tính mạng mà người chứng bệnh không được coi nhẹ vì chứng bệnh tình thường tiến triển rất nhanh, chỉ 1 – 2 ngày sau khi hết sốt:

  • đau đớn dạ dày dữ dội;
  • Nôn mửa liên tục;
  • ra máu từ nướu răng hoặc mũi;
  • Có máu trong nước tiểu, phân hoặc dưỡng chất nôn;
  • ra máu dưới da, có vết bầm tím;
  • không dễ thở hoặc thở nhanh;
  • Mệt mỏi;
  • Cáu kỉnh hoặc bồn chồn.

thực hiện thế nào để hạn chế các hệ lụy do chứng bệnh sốt xuất huyết xảy ra?

1. Theo dõi thân nhiệt thường xuyên

Sốt xuất huyết thường dấu hiệu với triệu chứng điển hình là sốt cao thời kỳ đầu và khi bắt đầu hạ sốt sẽ là thời điểm có thể xuất hiện các hệ lụy sốt xuất huyết nguy hiểm, do đó người chứng bệnh cần thiết phải phải được theo dõi thân nhiệt thường xuyên để nắm bắt được tình trạng chứng bệnh nhằm can thiệp điều trị sớm.

Trong trường hợp cơ thể sốt quá cao (≥ 38,5°C) có thể uống thuốc hạ nhiệt, nới lỏng quần áo và lau mát bằng nước nóng. Thuốc hạ nhiệt chỉ được dùng là paracetamol đơn dưỡng chất, liều dùng từ 10 – 15mg/kg cân nặng/lần, cách nhau mỗi 4 – 6 giờ.

cần thiết phải lưu ý:

  • Tổng liều paracetamol không quá 60mg/kg cân nặng/một ngày.
  • Không dùng aspirin (acetylsalicylic acid), analgin, ibuprofen để điều trị vì có thể gây ra xuất huyết, toan máu.

>> một vài lưu ý khi: Chăm sóc người chứng bệnh sốt xuất huyết

2. Điều trị theo chỉ định của bác sĩ

Phần lớn các trường hợp đều được chỉ định điều trị ngoại trú theo chỉ định của bác sĩ về các phương pháp hạ sốt, bù nước. Tuy nhiên, với các trường hợp chứng bệnh có dấu hiệu trở nặng, xảy ra các hệ lụy sốt xuất huyết, cần thiết phải phải được theo dõi chặt chẽ, sẽ phải nhập viện để được bác sĩ can thiệp điều trị tốt nhất.

Một tỷ lệ đặc biệt có thể được chỉ định nhập viện khi chứng bệnh trở nặng như: Sống một mình, nhà xa địa điểm y tế, gia đình không có nguy cơ theo dõi sát sao, trẻ nhũ nhi, người béo phì, phụ nữ mang thai, người già (từ 60 tuổi trở lên), người có chứng bệnh mạn tính đi kèm (thận, tim, gan, hen, COPD kém kiểm soát, đái tháo đường, thiếu máu tan máu…).

sốt xuất huyết cần điều trị theo chỉ định
người chứng bệnh cần thiết phải điều trị theo chỉ định của bác sĩ tránh các hệ lụy sốt xuất huyết.

>> Tìm hiểu thêm: Sốt xuất huyết thực hiện thế nào cho nhanh khỏi?

3. Bù nước và khoáng dưỡng chất cho cơ thể

Sốt xuất huyết thường dấu hiệu với tình trạng sốt cao, mất số lượng lớn nước và dưỡng chất điện giải, có thể dẫn tới hệ lụy nghiêm trọng nếu không được bổ sung sớm. Do đó, điểm quan trọng trong điều trị chứng bệnh và hệ lụy sốt xuất huyết là cần thiết phải bổ sung đầy đủ nước và khoáng dưỡng chất cho cơ thể người chứng bệnh.

Phương pháp bù dịch sớm bằng đường uống: nước oresol hoặc nước trái cây (nước dừa, cam, chanh tươi…) hoặc nước cháo loãng với muối. Đặc biệt không ăn uống những thực phẩm có màu nâu hoặc đỏ như xá xị, sô cô la vì có thể tác động tới kết quả chẩn đoán. số lượng nước cần thiết phải bù theo nhu cầu của cơ thể, khuyến khích uống nhiều.

>> Đọc thêm về cách: Điều trị sốt xuất huyết tại nhà

4. tới gặp bác sĩ khi có dấu hiệu trở nặng

Trong trường hợp chứng bệnh tình có dấu hiệu trở nặng, người chứng bệnh cần thiết phải nhanh chóng thăm kiểm tra bác sĩ để được hỗ trợ điều trị sớm. một vài dấu hiệu cảnh báo cho người chứng bệnh sốt xuất huyết như sau:

  • Cảm xuất hiện không dễ chịu hơn dù từng suy yếu hoặc hết sốt;
  • Không ăn, không uống được;
  • Nôn ói nhiều;
  • đau đớn bụng nhiều;
  • Tay chân lạnh, ẩm;
  • Mệt lả, bứt rứt;
  • ra máu mũi, miệng hoặc xuất huyết bộ phận sinh dục nữ;
  • Không tiểu trên 6 giờ;
  • Xuất hiện hành vi thế đổi như lú lẫn, tăng kích thích, vật vã hoặc li bì…

hệ lụy sốt xuất huyết thường tiến triển rất không dễ lường, dễ gây ra nguy kịch trong thời gian rất ngắn nếu không được can thiệp sớm và điều trị đúng cách, nguy cơ dẫn tới tình trạng sốc sốt xuất huyết, ra máu ồ ạt, tổn thương da cơ quan, thậm chí là tử vong. Do đó, nếu có bất kỳ dấu hiệu thất thường nào, cần thiết phải khẩn trương thăm kiểm tra bác sĩ để được hỗ trợ điều trị sớm.

Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.