Bản dưỡng chất của các yếu tố đông máu là góp phần thực hiện quá trình đông – cầm máu trong các thời kỳ đông – cầm máu bên trong cơ thể từ đó giúp cho cơ thể tránh rơi vào tình trạng thiếu máu ở một tỷ lệ như: thủ thuật, tổn thương,… Vậy những yếu tố này gồm có những gì, cách phân loại và nên thực hiện những xét nghiệm nào? BS.CKII Nguyễn Thiên Lữ, Khoa Nội tổng hợp, địa điểm y tế Đa khoa Hưng Thịnh Hà Nội sẽ giải đáp chi tiết, chuẩn y khoa các thắc mắc trên.
Yếu tố đông máu là như nào?
Yếu tố đông máu là những dưỡng chất có vai trò quyết định trực tiếp tới vận động đông máu của cơ thể, tác động tới quá trình cầm máu khi gặp phải thương hoặc trở thành cục máu đông trong lòng mạch. Những yếu tố đó có mối liên quan tới nguy cơ và thời gian đông máu. Khi thực hiện xét nghiệm chuyên sâu, bác sĩ sẽ hiểu được người mắc chứng bệnh có gặp phải rối loạn những yếu tố này thường hay không.
Các yếu tố đông máu hàng đầu
Vậy có bao nhiêu yếu tố đông máu hàng đầu? Theo các nghiên cứu mới nhất, các yếu tố hàng đầu được ký hiệu bằng các chữ số La Mã theo số thứ tự từ I tới XIII [1], cụ thể như sau:
Yếu tố I
Yếu tố đầu tiên trong danh sách, được ký hiệu là I, chủ yếu là Fibrinogen. Đây là một loại protein có thể hòa tan được, trọng số lượng phân tử là 340.000, có công dụng tạo sợi fibrin trong cục máu đông. Fibrinogen có giá trị thông thường từ 100- 700mg/100mL, không gặp phải tác động bởi vitamin K. Fibrinogen được tổng hợp ở gan, nên vận động đông – cầm máu sẽ gặp phải rối loạn ở những người mắc chứng bệnh mắc chứng bệnh về gan.
Yếu tố II
Yếu tố đông máu thứ hai là Prothrombin – một protein gặp phải tác động bởi vitamin K, có trọng số lượng phân tử là 68.700. Giá trị Prothrombin ở người khỏe mạnh là 15mg/100mL. Ở kiểu vận động của mình, Prothrombin giúp cho kích hoạt vận động của tiểu cầu; các yếu tố I, V, VII, VIII, XI, XIII và protein C, góp phần trở thành cục máu đông. Yếu tố II được gan tạo ra, nên khi gan gặp phải tổn thương, việc sản xuất Prothrombin sẽ gặp phải suy giảm xuống, kết quả là nguy cơ và thời gian đông máu của cơ thể gặp phải tác động.

Yếu tố III
Tiếp tới là Thromboplastin mô thường hay còn được gọi là yếu tố mô (tissue factor). Về bản dưỡng chất, yếu tố mô là một hỗn hợp lipoprotein – phospholipid, xuất hiện khi tế bào và tiểu cầu gặp phải tổn thương [2]. Như vậy, yếu tố III có vai trò trong cơ chế đông máu ngoại sinh. cộng với công dụng giúp cho đông máu, yếu tố mô còn phát huy công dụng của mình một cách hữu hiệu trong chống nhiễm khuẩn, giữ an toàn cơ thể.
Yếu tố IV
Yếu tố đông máu IV là Ion Canxi 2+. Trước hết, ion Canxi 2+ là yếu tố không thể thiếu khi trở thành cục máu đông bởi vì loại ion này tham gia vào nhiều thời kỳ không tương tự nhau trong suốt quá trình đông máu của cơ thể. Nồng độ Ion Canxi 2+ có thể thế đổi do menu uống, tiểu cầu và sức khỏe xương, nên việc giữ hàm số lượng canxi ổn định thông qua menu uống khoa học, giữ an toàn xương sẽ góp phần giữ gìn quá trình đông máu tiếp diễn thông thường.
Yếu tố V
Proaccelerin thường hay yếu tố V là một loại protein không ổn định tồn tại trong huyết tương, phụ thuộc vào Ion Canxi 2+, tuy vậy không gặp phải tác động bởi vitamin K. Về công dụng, yếu tố V giúp cho đẩy nhanh quá trình chuyển hóa prothrombin thành thrombin. Quá trình chuyển hóa Proaccelerin thường tiếp diễn nhanh chóng hơn trong huyết tương chứa oxalat và muộn hơn một chút trong huyết tương chứa citrat. Sự thiếu hụt bẩm sinh yếu tố V được gọi là chứng bệnh parahemophilia, tình trạng này có thể dẫn tới xuất huyết đường tiêu hóa, có máu cam, xuất huyết dưới da,…
Yếu tố VI
Trong y học tiên tiến, thuật ngữ “yếu tố VI” trong các yếu tố đông máu hàng đầu không còn được sử dụng nữa. Yếu tố VI có tên cũ là accelerin – tên cũ của yếu tố Va (kiểu kích hoạt của yếu tố V).
Yếu tố VII
Yếu tố VII là Proconvertin. Đây là một protein huyết tương có trọng số lượng phân tử là 60.000, phụ thuộc vào vitamin K, được gan tạo ra nhằm tăng mức chuyển đổi prothrombin thành thrombin và kích hoạt các yếu tố IX, X. Sự thiếu hụt yếu tố VII là rất thường ít gặp, chỉ xảy ra khi cơ thể mắc chứng bệnh về gan hoặc thiếu hụt vitamin K trong chế độ ăn.
Yếu tố VIII
Yếu tố VIII là yếu tố chống chứng bệnh máu không dễ đông thường hay yếu tố chống Hemophilia A (Antihemophilic A). Yếu tố VIII có trọng số lượng phân tử là 330.000, có công dụng đẩy nhanh quá trình chuyển đổi yếu tố X thành Xa, tuy vậy quá trình này sẽ gặp phải tác động bởi ion Canxi 2+. Yếu tố đông máu VIII được tổng hợp bởi nhiều gen trong các nhiễm sắc thể không tương tự nhau tại lá lách, gan.

Yếu tố IX
Yếu tố IX là yếu tố chống Hemophilia B (Antihemophilic B) – một là một glycoprotein chuỗi đơn có trọng số lượng phân tử là 60.000, tham gia nguyên nhân đông máu nội sinh, được gan tổng hợp nên (quá trình này phụ thuộc vào vitamin K). Yếu tố IX được kích hoạt bởi ion Canxi 2+ (yếu tố IV) và yếu tố XIa, tạo nên yếu tố IXa. Từ đó, yếu tố này sẽ kích hoạt yếu tố X (khi có sự hiện diện của phospholipid và ion canxi 2+).
Yếu tố X
Yếu tố X có nhiều tên gọi như yếu tố Stuart, yếu tố Stuart-Prower, yếu tố thrombokinase. Yếu tố đông máu này tồn tại trong huyết tương ở kiểu bất hoạt với thời gian bán hủy khoảng tầm 40 giờ. Stuart tương đối ổn định trong khi trở thành huyết khối (không gặp phải tiêu hao khi máu đông). Yếu tố X trực tiếp tham gia nguyên nhân đông máu nội sinh và đông máu ngoại sinh, chuyển hóa prothrombin thành thrombin.
Trên thực tế, mặc dù sự thiếu hụt yếu tố Stuart di truyền là rất hiếm, tuy vậy nó có thể xảy ra ở tất cả lứa tuổi và các triệu chứng được triệu chứng rõ nhất ở những người còn rất trẻ.
Yếu tố XI
Yếu tố XI là yếu tố chống Hemophilia C (Antihemophilic C), thường hay còn được biết tới là tiền thân của thromboplastin huyết tương (Plasma Thromboplastin Antecedent – viết tắt là PTA). Yếu tố XI có công dụng kích hoạt yếu tố IX, cùng tham gia nguyên nhân đông máu nội sinh. Theo nghiên cứu, gan tổng hợp yếu tố XI, sau đó giải phóng nó vào huyết tương. Nên bạn hãy lưu ý giữ sức khỏe gan thật tốt để không tác động tới vận động đông máu.
Yếu tố XII
Yếu tố Hageman thường hay yếu tố XII là yếu tố tiếp xúc, khởi đầu phản ứng đông máu. Cụ thể, khi yếu tố XII tiếp xúc với mặt trong của tĩnh mạch gặp phải tổn thương (với điều kiện sự có mặt đồng thời của phospholipid tiểu cầu), nó sẽ kích hoạt các yếu tố đông máu như prekallikrein, plasminogen, yếu tố XI, yếu tố VII. Tuy nhiên, yếu tố Hageman được bảo tồn trong suốt quá trình đông máu.
Yếu tố XIII
Yếu tố cuối cùng trong danh sách các yếu tố đông máu là yếu tố Fibrin Stabilizing Factor (thường được biết tới là FSF). công dụng của yếu tố XIII là liên kết chéo các sợi fibrin, góp phần giữ các tế bào máu lại tạo thành khối máu đông, giúp cho ngăn chặn tình trạng thiếu máu. Về tính dưỡng chất, yếu tố FSF phụ thuộc vào ion Canxi 2+ (chỉ vận động khi có sự hiện diện của ion Canxi 2+), tuy vậy không gặp phải tác động bởi vitamin K.
Cách phân loại yếu tố đông máu
Nhiều người cùng đưa ra thắc mắc “Cách phân loại các yếu tố đông máu là như nào?”. Trong y khoa, để tạo sự thuận tiện trong nghiên cứu, những yếu tố đông máu được các chuyên gia y tế phân chia theo 2 cách sau:
1. Theo công dụng
Theo công dụng, yếu tố đông máu được chia thành 2 nhóm hàng đầu:
1.1. Tổng hợp từ gan
Nhóm các yếu tố đông máu được tổng hợp từ gan là những tiền enzym hoặc enzym được gan tổng hợp. Các yếu tố này gồm có: Yếu tố VII (Proconvertin), yếu tố II (Prothrombin), yếu tố IX (Antihemophilic B) và yếu tố X (Stuart). Một điểm chung không tương tự của nhóm này là quá trình tổng hợp gặp phải tác động bởi vitamin K.

1.2. Thúc đẩy Enzym
Các yếu tố có nguy cơ thúc đẩy vận động của enzym sẽ được phân vào nhóm này. Nhóm thúc đẩy enzym gồm 3 yếu tố sau: Yếu tố I (Fibrinogen), yếu tố VIII (Antihemophilic A) và yếu tố V (Proaccelerin). Ngoài ra, vitamin K không thực hiện tác động tới quá trình sản xuất những yếu tố này.
2. Theo nguyên nhân đông máu
cộng với cách phân loại theo công dụng, các chuyên gia y tế còn phân loại các yếu tố đông máu theo nguyên nhân đông máu:
2.1. Nội sinh
Yếu tố đông máu nội sinh là những yếu tố chỉ có vai trò trong nguyên nhân đông máu nội sinh. Các yếu tố thuộc nhóm này là: Yếu tố IX (Antihemophilic B), yếu tố XI (PTA), yếu tố VIII (Antihemophilic A) và yếu tố XII (Hageman).
2.2. Ngoại sinh
Ngược lại với yếu tố đông máu nội sinh phía trên, nhóm các yếu tố ngoại sinh là những yếu tố chỉ có vai trò trong nguyên nhân đông máu ngoại sinh. Nhóm này có 2 yếu tố là: Yếu tố III (Thromboplastin mô) và yếu tố VII (Proconvertin).
2.3. gồm có nội và ngoại sinh
Nhóm cuối cùng được phân loại theo nguyên nhân đông máu là nhóm các yếu tố tham gia cả hai nguyên nhân đông máu nội sinh và đông máu ngoại sinh. Nhóm này gồm có: Yếu tố I (Fibrinogen), yếu tố II (Prothrombin), yếu tố IV (ion Ca++), yếu tố V (Proaccelerin), yếu tố X (Stuart), yếu tố XIII (FSF).
Tình trạng rối loạn yếu tố đông máu
Tình trạng rối loạn yếu tố đông máu xảy ra khi một (hoặc nhiều) yếu tố gặp phải rối loạn như thiếu hụt, thừa hoặc vận động thất thường, dẫn tới quá trình đông máu gặp phải mất cân bằng. Tùy theo tình trạng và yếu tố cụ thể gặp phải rối loạn, cơ thể sẽ có những triệu chứng không tương tự nhau. Ví dụ: suy giảm Prothrombin (yếu tố II), cơ thể sẽ gặp phải xuất huyết; trong khi thiếu hụt Proaccelerin (yếu tố V) sẽ dẫn tới rong kinh, xuất huyết dưới da,…
Rối loạn yếu tố đông máu cần phải được phát hiện và điều trị sớm thông qua xét nghiệm yếu tố đông máu. Khi xác định được chuẩn xác yếu tố nào gặp phải rối loạn, cũng như tình trạng rối loạn, bác sĩ chuyên môn mới có thể điều trị, đưa ra phương án kiểm soát chứng bệnh, giữ an toàn hữu hiệu sức khỏe của người mắc chứng bệnh.
Các xét nghiệm phản hồi yếu tố đông máu
Việc phản hồi các yếu tố này được tiến hành bằng những xét nghiệm yếu tố đông máu chuyên sâu, có ý nghĩa trong phản hồi kết quả các nguyên nhân đông máu ngoại sinh, đông máu nội sinh và cả hai:
- Xét nghiệm PT: Đây là xét nghiệm giúp cho phản hồi yếu tố ngoại sinh. Kết quả xét nghiệm PT quá 3 giây so với khoảng tầm giá trị ở người khỏe mạnh (11 – 13 giây), sẽ là tình trạng PT lâu dần – cơ thể đang thiếu hụt các yếu tố ngoại sinh.
- Xét nghiệm APTT: Qua xét nghiệm APTT, bác sĩ có thể phản hồi yếu tố nội sinh. APTT lâu dần khi tỷ lệ APTT chứng bệnh/APTT chứng cao trên 1.25, tức là trường hợp suy giảm đông máu; ngược lại APTT rút ngắn sẽ dẫn tới trường hợp tăng đông máu.
- Xét nghiệm TT: Để phản hồi nguy cơ đông máu chung (nguyên nhân nội sinh và ngoại sinh), bác sĩ sẽ dùng xét nghiệm TT. Nguyên lý của xét nghiệm này là đo thời gian huyết tương đông lại nhắc từ lúc cho thrombin vào trong huyết tương tới khi xuất hiện huyết khối. Xét nghiệm này có thể giúp cho phản hồi Fibrinogen (yếu tố I), Fibrinogen thất thường sẽ dẫn tới kết quả TT lâu dần hơn so với giá trị tham chiếu.
- Fibrinogen: Xét nghiệm Fibrinogen được sử dụng để định số lượng nồng độ Fibrinogen trong máu. Những thất thường về chỉ số Fibrinogen có thể là do những tình trạng chứng bệnh lý như: Nhiễm khuẩn, chứng bệnh gan hoặc các rối loạn đông máu (thiếu fibrinogen bẩm sinh, DIC…) Có thể dùng phương pháp trực tiếp hoặc gián tiếp để định số lượng fibrinogen.

Để giữ gìn kết quả các xét nghiệm Fibrinogen, APTT, PT và TT được thực hiện chuyên nghiệp, chuẩn xác, cũng như dịch vụ thăm khám chữa trị chứng bệnh toàn diện, bạn nên lựa chọn lựa địa điểm y tế uy tín, có hệ thống bác sĩ chuyên môn cao, được trang gặp phải hệ thống máy xét nghiệm tiên tiến.
HỆ THỐNG địa điểm y tế ĐA KHOA Hưng Thịnh
- địa điểm y tế Đa khoa Hưng Thịnh Hà Nội:
- địa điểm y tế Đa khoa Hưng Thịnh TP.HCM:
- địa điểm y tế Đa khoa Hưng Thịnh – Quận 8:
- Phòng thăm khám Đa khoa Hưng Thịnh Quận 7:
- Fanpage: https://www.facebook.com/benhvientamanh/
- Website: tamanhhospital.vn
Vừa rồi là những thông tin chuyên môn được bác sĩ của địa điểm y tế Đa khoa Hưng Thịnh chia sẻ về yếu tố đông máu là như nào? Có bao nhiêu yếu tố hàng đầu? Cũng như tình trạng rối loạn các yếu tố đông máu và những xét nghiệm giúp cho phát hiện tình trạng này. Hơn nữa, việc xét nghiệm sẽ giúp cho mình mỗi người nắm được tình trạng sức khỏe, từ đó có phương hướng xây dựng một thói quen sống khoa học và thói quen thăm thăm khám thường xuyên.