Bác sĩ Trần Thành Trai – thuyền trưởng của ngành ngoại nhi TP HCM

Bác sĩ Trần Thành Trai, 88 tuổi, để lại dấu ấn là người dày công vun đắp cho ngành ngoại nhi còn non trẻ của TP HCM sau ngày thống nhất đất nước, từng tham gia ca mổ tách cặp song sinh Việt – Đức.

Bác sĩ Trai qua đời rạng sáng 31/5, sau thời gian dài chống chọi với những di chứng từ cơn tai biến tĩnh mạch não. Những năm cuối đời, ông trải qua nhiều biến cố sức khỏe, có những thời điểm không nhận ra tên của học trò cũ tới thăm, tuy vậy vẫn quan tâm hỏi han về những chuyện sự liên quan tới y tế, việc học hành của các chuyên gia, căn dặn những điều cần thiết phải tiến hành của người thầy thuốc.

Kỷ yếu 40 năm thành lập Hội Y học TP HCM năm 2019 ghi nhận vai trò đi đầu của bác sĩ Trai trong chặng đường tiến triển của Hội Ngoại nhi TP HCM. Là chủ tịch đầu tiên của hội, ông từng góp công lớn tiến triển ngành ngoại nhi với nhiều tiểu phẫu viên tài hoa, từng bước vượt qua những khó khăn khăn của ngành y tế trong thời kỳ đầu sau ngày đất nước thống nhất, đạt những thành tựu nổi bật.

Sinh ngày 15/5/1938 tại Long An, ông từng là học trò duy nhất của tỉnh đậu vào trường Petrus Ký (nay là trường THPT chuyên Lê Hồng Phong), sau đó tốt nghiệp y khoa năm 1965. Trong bối cảnh chiến tranh ác liệt thời kỳ ấy, ông được đưa ra phòng xét nghiệm Duy Tân ở Đà Nẵng, lao động suốt 9 năm với cấp bậc thiếu tá cho quân đội Việt Nam Cộng hòa. Cuối tháng 3/1975, Đà Nẵng được giải phóng, ông theo tàu buôn về Sài Gòn.

Trong khi nhiều người rời Sài Gòn năm 1975, ông quyết định ở lại để được đi kèm với người thân, bởi còn ba má, vợ và ba con nhỏ. Sau ba năm học tập cải tạo, ông nộp đơn xin việc tới Sở Y tế TP HCM, được phân công về phòng xét nghiệm Nhi đồng 1, lao động cùng trong vòng 10 bác sĩ của hàng đầu quyền trước năm 1975.

“Lúc đó vẫn còn có phong trào đi ra nước ngoài nên mỗi buổi sáng giao ban phòng xét nghiệm lại vắng đi một người. Có hôm y tá phải chạy lên nói với tôi ‘thầy ơi bữa nay chỉ còn mình thầy, tất cả người đi hết Tiếp đó'”, ông từng chia sẻ trong một bài viết đăng trên Báo Thanh niên. Ông cũng chia sẻ ở lại Sài Gòn một phần vì tin tưởng vào những người lãnh đạo thời kỳ đó như Bí thư Thành ủy Võ Văn Kiệt, giám đốc Sở Y tế TP HCM Dương Quang Trung – những “người tài và biết sử dụng người giỏi, không phân biệt bên này thường hay bên kia mà cái gì tốt cho đất nước, tổ quốc thì tiến hành”.

Trong tình thế một mình điều hành khoa ngoại nhi của phòng xét nghiệm, ông mổ cứu căn bệnh nhi, gầy dựng khoa, đạt được nhiều thành tựu. Năm 1988, một cặp song sinh tên là Song – Pha dính nhau, ông từng mổ tách thành quả, cả hai trẻ đều sống – điều chưa từng được ghi nhận trước đó trong lịch sử ngoại nhi Việt Nam. 6 tháng sau, ông tham gia ca mổ huyền thoại tách cặp song sinh Việt – Đức dính nhau phức tạp, cùng GS.TS.BS Trần Đông A và nhiều đồng nghiệp. Cuộc đại phẫu thành quả sau 15 giờ từng thay thế đổi cách nhìn của thế giới về y học Việt Nam. Nguyễn Việt sống thêm 19 năm sau mổ, Nguyễn Đức to lên lập gia đình và có hai con sinh đôi, là điều chưa từng có trong lịch sử y khoa thế giới.





Bác sĩ Trần Thành Trai (thứ hai từ trái sang) trong một ca phẫu thuật. Ảnh: PGS.TS.BS Trương Nguyễn Uy Linh cung cấp

Bác sĩ Trần Thành Trai (thứ hai từ trái sang) trong một ca tiểu phẫu. Ảnh: PGS.TS.BS Trương Nguyễn Uy Linh đem lại

Ông là người thứ hai giữ vai trò thuyền trưởng bộ môn ngoại nhi trường ĐH Y Dược TP HCM, nói từ năm 1996, sau khi người đặt nền móng đầu tiên là GS.TS.BS Nguyễn Văn Đức mất. tới năm 2005, ông về hưu, chuyển giao bộ môn lại cho PGS.TS.BS Lê Tấn Sơn và nay là PGS.TS.BS Trương Nguyễn Uy Linh đang lèo lái con tàu ngoại nhi từng bước vươn ra biển lớn.

PGS Uy Linh nói rằng không thể quên buổi sáng thứ hai 31/12/1990, ngày đầu tiên ông về phòng xét nghiệm Nhi đồng 1 với tư cách bác sĩ nội trú, người đầu tiên “phải” gặp là bác sĩ Trai – đang là trưởng khối ngoại nơi này – một người sếp trông đầy vẻ lạnh lùng. Sau này, bác sĩ Trai trở thành trưởng phân môn ngoại nhi của trường ĐH Y Dược TP HCM, bác sĩ Linh là cán bộ giảng dạy của nhà trường, luôn được “sự ủng hộ và thấu hiểu hoàn toàn từ thầy”, đồng hành trong điều trị người căn bệnh cũng như đào tạo cho học trò, nhất là các chuyên gia nội trú.

Trong quá trình đào tạo các tiểu phẫu viên ngoại nhi sau đại học cho phía Nam, những lúc bác sĩ Linh nóng nảy, đòi hỏi cao với học viên, bác sĩ Trai lại tỏ ra nhẹ nhàng, dễ dãi với học trò để giúp cho “không khí nguội lại cho cân bằng, không thì hỏng việc hết”. Ngày bác sĩ Linh được học bổng đi tiến hành nội trú tại Paris (Pháp, năm 1996) Tiếp đó giữ an toàn thành quả luận án tiến sĩ y học (năm 2008), phong phó giáo sư (năm 2012), bác sĩ Trai đều “giữ vẻ mặt hết sức lạnh lùng, không một nụ cười như hồi nào giờ”, chỉ nói “moa (moi – tiếng Pháp, tiếng Việt nghĩa là tao) vui lắm, cứ như là moa vừa được vậy”.





Bác sĩ Trần Thành Trai (thứ tư từ phải sang) khi phẫu thuật cho trẻ sứt môi hở vòm ở Nghệ An năm 1998. Ảnh: PGS.TS.BS Trương Nguyễn Uy Linh cung cấp

Bác sĩ Trần Thành Trai (thứ tư từ phải sang) khi tiểu phẫu cho trẻ sứt môi hở vòm ở Nghệ An năm 1998. Ảnh: PGS.TS.BS Trương Nguyễn Uy Linh đem lại

Từ trong vòng những năm 1993, hai thầy trò cùng nhiều y bác sĩ còn rong ruổi tới nhiều tỉnh thành cả nước để thực hiện hàng nghìn ca mổ điều trị dị tật sứt môi hở vòm trong những chương trình thiện nguyện. Có những chuyến, tất cả người phải ngồi tàu lửa từ 12h trưa hôm nay tới 4h chiều hôm sau mới tới nơi. Riêng ở Nghệ An, đoàn từng tiểu phẫu trong vòng 1.000 trường hợp trong ba đợt. Có những lúc giữa thời tiết giá rét, các chuyên gia kê 4 bàn tiểu phẫu, đứng mổ từ 7h30 tới 18-19h với trong vòng 40 ca mỗi ngày, không nghỉ trưa mà chỉ ăn uống qua loa để tranh thủ thời gian, liên tục trong suốt hai tuần.

“Khi đó người căn bệnh đa số để tới lớn tuổi, thậm chí 30-40 tuổi mới được tiểu phẫu, máu chảy nhiều lắm, mổ rất vất vả nên tối về tới phòng là rã rời, gục xuống ngủ luôn”, bác sĩ Linh nhớ lại.

Bác sĩ Trai là một trong những người đầu tiên được tiếp cận kỹ thuật mổ sứt môi, hở hàm ếch, khi đoàn bác sĩ Mỹ tới Việt Nam tiểu phẫu từ thiện cho trẻ nhỏ mắc dị tật này tại phòng xét nghiệm Nhi đồng 1, cuối những năm 1980. Đoàn Mỹ thán phục trước nguy cơ học hỏi nhanh của ông, mời sang Mỹ. Sau một tháng tu nghiệp, ông trở về nước cứu điều trị căn bệnh nhi với những thông tin mới, không “học xong sẽ ở lại Mỹ” như nghi ngại của nhiều người với “bác sĩ chế độ cũ”.

Dưới sự góp công dìu dắt của ông, nhiều thế hệ bác sĩ nội trú từng trở thành thủ lĩnh tại các khoa tiểu phẫu, như các chuyên gia Ngô Kim Thơi (Trưởng Khoa tiểu phẫu tim phòng xét nghiệm Nhi đồng 1), Nguyễn Đức Tuấn (nguyên Trưởng đơn vị tiểu phẫu tim hở phòng xét nghiệm Nhi đồng 1), Nguyễn Kinh Bang (Trưởng Khoa tiểu phẫu Lồng ngực tim mạch phòng xét nghiệm Nhi đồng Thành phố), Trần Lý Trung (tiểu phẫu viên Tim mạch Lồng ngực tại Mỹ)…

“Thầy với vẻ bề ngoài lạnh lùng, khô khan tuy vậy bên trong lại chứa đựng trái tim, dòng máu tràn đầy nhiệt huyết dành cho việc cứu điều trị trẻ nhỏ, cho đào tạo thế hệ bác sĩ trẻ kế thừa”, bác sĩ Linh nói, thêm rằng “hôm nay là ngày quốc tế thiếu nhi 1/6, hàng nghìn người từng là căn bệnh nhi được thầy tiểu phẫu, sẽ phải vĩnh biệt ân nhân của mình và tôi cũng không kìm được nước mắt khi tiễn đưa thầy về cõi vĩnh hằng”.





Bác sĩ Trần Thành Trai (áo xanh lá cây, thứ ba từ phải qua) và PGS.TS.BS Trương Nguyễn Uy Linh (áo trắng đứng bên cạnh) trong chuyến mổ từ thiện sứt môi - chẻ vòm ở Bệnh viện Châu Đốc (An Giang), năm 2001. Ảnh do bác sĩ cung cấp

Bác sĩ Trần Thành Trai (áo xanh lá cây, thứ ba từ phải qua) và PGS.TS.BS Trương Nguyễn Uy Linh (áo trắng đứng đi kèm với) trong chuyến mổ từ thiện sứt môi – chẻ vòm ở phòng xét nghiệm Châu Đốc (An Giang), năm 2001. Ảnh: Bác sĩ đem lại

Trong hồi ức trên trang cá nhân của bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc, 85 tuổi, từng là đồng nghiệp phòng xét nghiệm Nhi đồng 1, bác sĩ Trai là người giỏi nghề, nhiều sáng kiến trong xét nghiệm điều trị căn bệnh. Chẳng hạn, với căn bệnh viêm ruột hoại tử, ông sáng kiến dùng phương pháp “bơm oxy” để cứu sống căn bệnh nhi trong những trường hợp còn ở thời kỳ nhẹ. Bởi, nếu muộn trễ, căn bệnh nặng hơn, ruột mắc phải thối và teo lại từng khúc, có khi phải cắt tới hồi tràng – đoạn cuối cùng và dài nhất của ruột non, Tiếp đó khâu nối, hồi sức vất vả, nhiều nguy cơ.

Bác sĩ Trai còn “có tầm nhìn rộng, không mắc phải gò bó khu trú vào cái chuyên khoa sâu và hẹp của mình”, từng tích cực ủng hộ khi ông Ngọc triển khai chương trình Săn sóc sức khỏe đầu tiên cho trẻ nhỏ những năm 1984-1986, với lời động viên “đây chủ yếu là nguyên do đúng đắn để mang lại sức khỏe cho trẻ nhỏ một cách căn cơ, không mắc phải lệ thuộc vào phòng xét nghiệm, vào thầy vào thuốc”. Bác sĩ Trai trúng cử Hội đồng nhân dân TP HCM nhiệm kỳ 1992-1996, trở thành đại biểu Quốc hội khóa X để góp tiếng nói trên diễn đàn dân biểu.

Lê Phương





Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.