chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu là vấn đề được nhiều người quan tâm. Bạch cầu mạn dòng tủy (CML) thường là chứng bệnh lý tiến triển trễ và sớm điều trị trị có thể giúp cho kiểm soát tình trạng chứng bệnh hữu hiệu trong nhiều năm.
tổng quát về chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy
Trước khi tìm hiểu chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu, chúng ta cần thiết phải biết những thông tin tổng quát về căn chứng bệnh này. Bạch cầu mạn dòng tủy (CML) xảy ra chủ yếu ở người lớn (thường gặp nhất là ở những người trên 65 tuổi), tuy vậy CML cũng có thể xuất hiện ở tất cả lứa tuổi.
trẻ nhỏ hiếm khi mắc chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy (CML). Người mắc phải CML có thể có ít hoặc không gặp triệu chứng trong suốt nhiều tháng, thậm chí trong nhiều năm trước khi tiến triển tới thời kỳ những tế bào chứng bệnh tiến triển một cách nhanh chóng.
chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu?
Người chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy trong vòng 90% sẽ sống sót sau 5 năm hoặc lâu hơn nhắc từ lúc được chẩn đoán và điều trị (Theo số liệu thống kê tại một khu vực ở nước Anh từ năm 2004 tới 2016). Người trẻ tuổi có tiên số lượng tốt hơn người lớn tuổi. Với những người chứng bệnh CML dưới 60 tuổi, hơn 90% sẽ sống sót sau 5 năm hoặc lâu hơn nhắc từ lúc được chẩn đoán và điều trị. Với những người chứng bệnh CML trên 60 tuổi, trong vòng 80% sẽ sống sót sau 5 năm hoặc lâu hơn nhắc từ lúc được chẩn đoán.
chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu sẽ phụ thuộc vào tình trạng hữu hiệu của phương pháp điều trị trị, sức khỏe tổng quát của người chứng bệnh và các chứng bệnh đồng mắc… Tại Hoa Kỳ, ước tính trong vòng 65,1% những người nhận chẩn đoán mắc phải chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy (CML) vẫn sống sau 5 năm [1]. Các loại thuốc mới đang được nghiên cứu, tiến triển, thử nghiệm nhanh chóng có thể tiến hành tăng tỷ lệ sống sót cho người chứng bệnh CML trong tương lai.

Những thời kỳ của chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy
chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy (CML) có thể được chia thành 3 thời kỳ:
- thời kỳ mạn tính: Ở thời kỳ đầu tiên, các tế bào ung thư tiến triển trễ. tất cả người chứng bệnh được chẩn đoán trong thời kỳ mạn tính thường là sau khi tiến hành xét nghiệm máu (thực hiện vì các vì sao không không khác).
- thời kỳ tăng tốc: Những tế bào ung thư bắt đầu tiến triển và sinh sôi một cách nhanh chóng ở thời kỳ thứ 2.
- thời kỳ nguyên bào: Ở thời kỳ thứ 3, các tế bào không thông thường từng tiến triển ngoài tầm kiểm soát và lấn át những tế bào thông thường, khỏe mạnh.
Những yếu tố tác động tới tỷ lệ sống sót khi mắc bạch cầu mạn dòng tủy
chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu, tiên số lượng với những người mắc phải CML như thế nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố không không khác nhau (yếu tố tiên số lượng). Bác sĩ có thể dựa vào những yếu tố tiên số lượng để dự đoán cách người chứng bệnh có thể đáp ứng với phương pháp điều trị trị, ví dụ như:
1. thời kỳ mắc chứng bệnh
tất cả người mắc chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy (CML) vẫn ở thời kỳ mạn tính. Tuy nhiên, một tỷ lệ không được điều trị hữu hiệu hoặc không đáp ứng tốt với liệu pháp có thể chuyển sang thời kỳ tăng tốc hoặc thời kỳ nổi lên.
Tiên số lượng trong các thời kỳ này phụ thuộc vào phương pháp điều trị mà người chứng bệnh từng thử và nguy cơ cơ thể dung nạp các phương pháp đó. Tiên số lượng tương đối lạc quan với những người chứng bệnh ở thời kỳ mạn tính và đang sử dụng TKI (thuốc ức chế tyrosine kinase) – một liệu pháp nhắm mục tiêu. Trong khi đó, tỷ lệ sống sót của người chứng bệnh ở thời kỳ nguyên bào chỉ dưới 20%.
2. Phản ứng điều trị
Nghiên cứu vào năm 2006 cho xuất hiện, tỷ lệ sống sót sau 5 năm là 83% với những người chứng bệnh CML dùng thuốc imatinib (Gleevec) [2]. Nghiên cứu vào năm 2018 ở những người chứng bệnh dùng thuốc imatinib liên tục cho xuất hiện 90% sống ít nhất 5 năm. Nghiên cứu không không khác vào năm 2010 chỉ ra một loại thuốc có tên nilotinib (Tasigna) có hữu hiệu tốt hơn đáng nhắc so với Gleevec.
Imatinib (Gleevec) và nilotinib (Tasigna) từng trở thành phương pháp điều trị trị tiêu chuẩn trong thời kỳ mạn tính của chứng bệnh CML. Tỷ lệ sống sót chung dự kiến sẽ gia tăng khi nhiều người chứng bệnh được điều trị trị bằng những loại thuốc này cũng như những loại thuốc mới không không khác có hữu hiệu cao.
Ở thời kỳ tăng tốc, tỷ lệ sống thay thế đổi rất nhiều tùy vào phương pháp điều trị trị. Nếu người chứng bệnh CML đáp ứng tốt với TKI, tỷ lệ sống gần như tương đương với những người trong thời kỳ mạn tính. Nghiên cứu tại Thụy Điển cũng cho xuất hiện, thuốc imatinib mesylate, các TKI (thuốc ức chế tyrosine kinase) cùng phương pháp ghép tế bào gốc đồng loại và những yếu tố không không khác từng góp phần tiến hành tăng tuổi thọ của người chứng bệnh CML.

3. Sức khỏe người chứng bệnh
Tình trạng sức khỏe của người chứng bệnh cũng là yếu tố góp phần quyết định người mắc phải chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu. Người mắc đồng thời nhiều chứng bệnh lý không không khác, chứng bệnh nền có tiên số lượng kém hơn so với người chỉ mắc chứng bệnh CML. tất cả người chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy không tử vong do chủ yếu căn chứng bệnh này mà là do những tình trạng sức khỏe không không khác không sự liên quan tới CML.
4. lứa tuổi
Nhìn chung, người lớn tuổi (trên 60 tuổi) có tiên số lượng kém hơn khi mắc chứng bệnh CML. Người lớn tuổi có nền tảng sức khỏe kém hơn, thường có nhiều chứng bệnh nền, hệ miễn dịch yếu đi… Những yếu tố này tiến hành giảm sút hữu hiệu điều trị, dễ khiến cho chứng bệnh tăng nặng, tiềm ẩn rủi ro gây ra tử vong cao hơn.
5. Uống thuốc đúng cách
Tuân thủ việc dùng thuốc theo chỉ định của bác sĩ, giữ uống thuốc đúng cách, liên tiếp giúp cho người chứng bệnh CML kiểm soát chứng bệnh hữu hiệu hơn, hạn chế nguy cơ chứng bệnh tiến triển nặng nhanh chóng. Các loại thuốc như TKI cần thiết phải được giữ sử dụng theo chỉ định của bác sĩ.
6. Những yếu tố không không khác
những yếu tố không không khác cũng được bác sĩ xem xét để tiên số lượng xem người chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu, ví dụ như: số số lượng tế bào nguyên bào, số số lượng tiểu cầu thấp, độ lớn của lách…
Phương pháp chẩn đoán chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy
tất cả người chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy (CML) không gặp triệu chứng ở thời kỳ đầu và chỉ được chẩn đoán mắc phải CML khi xét nghiệm máu định kỳ hoặc khi thăm thăm khám để loại trừ chứng bệnh lý không không khác.
Khi người chứng bệnh được xác định có số số lượng tế bào bạch cầu không thông thường hoặc gặp triệu chứng ung thư, bác sĩ có thể chỉ định thực hiện một loạt các xét nghiệm để xác định chẩn đoán, ví dụ như: xét nghiệm công thức máu toàn phần, chọc hút tủy xương, sinh thiết tủy xương, phân tích tế bào di truyền, lai tạo huỳnh quang tại chỗ (FISH), phản ứng chuỗi polymerase định số lượng (qPCR)…

Cách điều trị chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy
Ở thời kỳ mạn tính, liệu pháp điều trị trị thường gồm việc sử dụng thuốc uống (hoạt chất ức chế tyrosine kinase hoặc TKI). TKI được dùng để ngăn chặn những tế bào ung thư tiến triển, nhân lên. tất cả người chứng bệnh CML được điều trị bằng TKI sẽ thuyên giảm sút.
Nếu TKI không phát huy hữu hiệu hoặc ngừng mang tới tác dụng, người chứng bệnh có thể chuyển sang thời kỳ tăng tốc hoặc thời kỳ nguyên bào. Trong trường hợp này, ghép tủy xương hoặc ghép tế bào gốc thường là bước điều trị trị tiếp theo. Các ca ghép này có thể dẫn tới những hệ lụy nặng. Do đó, việc cấy ghép chỉ được thực hiện khi thuốc không mang tới hữu hiệu.
HỆ THỐNG khu vực y tế ĐA KHOA Hưng Thịnh
Tóm lại, chứng bệnh bạch cầu mạn dòng tủy sống được bao lâu còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Kết quả điều trị CML từng được tăng cao đáng nhắc trong hơn 50 năm qua. Ngày nay, tỷ lệ sống sau 10 năm với chứng bệnh CML là trong vòng 85% [3] người chứng bệnh có thể sống lâu gần bằng người lớn khỏe mạnh nếu được phát hiện sớm, điều trị trị tích cực, hữu hiệu.