Ngủ nhiều có thể mối liên quan tới các căn bệnh lý tiềm ẩn, gây ra buồn ngủ ban ngày, khiến cho công việc mắc phải tác động và tiềm ẩn nguy cơ té ngã, tai nạn. Vậy ngủ nhiều là căn bệnh gì? nên can thiệp ra sao?
Ngủ bao nhiêu một ngày được xem là ngủ nhiều?
một vài người dù ngủ chưa đủ 7 giờ mỗi tối vẫn hoàn toàn tỉnh táo, sảng khoái. Ngược lại, có những người phải ngủ nhiều hơn 9 giờ mỗi tối mới giữ gìn tất cả vận động của họ vào hôm sau xảy ra thường thì. Việc ngủ nhiều, ngủ ít là do di truyền, lứa tuổi, căn bệnh lý kèm theo… Mặt không không khác, ngủ bao nhiêu một ngày là đủ, bao nhiêu một ngày là nhiều, ít còn phụ thuộc vào uy tín giấc ngủ.
Tuy nhiên, một người nếu ngủ quá 10 giờ một đêm mà vẫn có những dấu hiệu buồn ngủ trong ngày và ngủ nhiều hơn thì có thể xem là ngủ nhiều. Phần lớn những người ngủ nhiều quá 10 giờ một đêm là do mắc các căn bệnh lý rối loạn giấc ngủ hoặc do những căn bệnh lý không không khác.
một vài người có thể có nhu cầu nên được ngủ nhiều hơn 9-10 giờ mỗi đêm để phục hồi sau đêm tiệc tùng nhiều ngày, trong những lúc lo lắng hoặc do căn bệnh. Ngủ quá nhiều và thất thường cũng có thể là dấu hiệu của chứng trầm cảm, rối loạn giấc ngủ hoặc một căn bệnh lý nào đó mối liên quan tới giấc ngủ.

Dấu hiệu ngủ nhiều nên lưu ý
Nếu có những dấu hiệu sau, có thể bạn mắc hội chứng ngủ nhiều hơn thường thì:
- Thời gian ngủ hàng ngày thường hơn 9, 10 giờ
- từng ngủ nhiều hơn so với thời điểm lý tưởng tuy vậy vẫn buồn ngủ
- Không bao giờ hoặc hiếm khi cảm xuất hiện sảng khoái sau khi ngủ
- Buổi tối ngủ ít sẽ khiến cho bạn rất khó khăn khăn để bắt đầu ngày mới
- Chuông báo thức reo tuy vậy vẫn có thể ngủ tiếp
- Vào kỳ nghỉ hoặc cuối tuần thường ngủ nhiều hơn
Ngủ nhiều là căn bệnh gì?
Giấc ngủ đặc biệt quan trọng với sức khỏe. Ngủ ít không những là nguyên nhân gây ra mất tập trung, suy giảm sút các công dụng sinh học như tiến triển, ghi nhớ, học tập, trao đổi dinh dưỡng, miễn dịch… mà còn mối liên quan tới một vài căn bệnh lý. tuy vậy ngược lại, ngủ nhiều thường hay ngủ quá nhiều cũng được cho là gây ra tác động xấu tới sức khỏe. Vậy ngủ nhiều là căn bệnh gì thường hay ngủ nhiều có thể do các căn bệnh lý nào gây ra ra và tác động thế nào tới sức khỏe?
1. Hội chứng ngủ nhiều (Hypersomnia)

Người ngủ nhiều không thể cưỡng lại được cơn buồn ngủ nhiều lần vào ban ngày mặc dù từng ngủ đủ giấc hoặc hơn (ngủ đủ 9 giờ hoặc hơn). Ngủ nhiều tác động tới nguy cơ lao động và giao tiếp xã hội, đảo tuột và tác động tới uy tín cuộc sống, tiến hành tăng nguy cơ tai nạn.
Hội chứng này thường gặp ở phụ nữ nhiều hơn so với nam giới và thường gặp trong lứa tuổi vị thành niên hoặc thanh niên (tuổi trung bình là 17 tới 24).
Nguyên nhân của toàn bộ các trường hợp mắc hội chứng ngủ nhiều vẫn chưa được biết. Tuy nhiên có các giả thuyết sau: (1)
- Vai trò tiềm ẩn của các dinh dưỡng dẫn truyền thần kinh trong não và dịch não tủy gồm hypocretin/orexin, dopamine, histamine, serotonin và axit gamma-aminobutyric (GABA) với hội chứng ngủ nhiều.
- Mối liên hệ di truyền do có tới 39% số người mắc chứng ngủ nhiều vô căn có tiền sử gia đình.
- Vai trò của một vài gen nhất định trong nhịp sinh học có thể không không khác nhau ở những người mắc chứng ngủ nhiều vô căn.
2. Hội chứng ngủ rũ
Chứng ngủ rũ một trong những gợi ý đầu tiên khi ai đó muốn biết ngủ nhiều là dấu hiệu của căn bệnh gì. Đây là chứng rối loạn giấc ngủ thường hay rối loạn tỉnh táo khiến cho người căn bệnh có nhu cầu ngủ quá mức và ngủ rất nhiều vào ban ngày, từ ngày này sang ngày không không khác. Người ngủ rũ có thể ngủ bất kỳ lúc nào vào các khung giờ thức của một người thường thì, kèm theo các cơn yếu cơ đột ngột, thoáng qua. Các triệu chứng không không khác gồm tê liệt khi ngủ, mơ ngủ như thật và xuất hiện ảo giác khi ngủ hoặc thức dậy.
căn bệnh tiềm ẩn nguy cơ tai nạn, đặc biệt nguy hiểm khi điều khiển phương tiện giao thông, lao động trên cao… tuy nhiên không tác động tới tuổi thọ. Nguyên nhân ngủ nhiều trong chứng ngủ rũ có thể có nguồn gốc tự miễn dịch. (2)
3. Hội chứng ngưng thở khi ngủ
Ngưng thở khi ngủ là căn bệnh lý thường gặp, mô tả tình trạng ngừng thở trong khi ngủ (10 tới 30 giây, ít nhất 5 lần một giờ). Hội chứng này chủ yếu tác động tới nam giới, ước tính có 4% nam giới và 2% nữ giới. Chứng ngưng thở khi ngủ thường được phân thành ba kiểu, từ nhẹ tới nghiêm trọng.
- Ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA): Đây là kiểu thường gặp nhất, xảy ra khi các cơ ở họng giãn ra, chặn luồng không khí vào phổi.
- Ngưng thở khi ngủ ở trung ương (CSA): Xảy ra khi não không gửi tín hiệu thích hợp tới các cơ kiểm soát nhịp thở.
- Ngưng thở khi ngủ trung ương do điều trị (ngưng thở khi ngủ phức tạp): Xảy ra khi ai đó mắc phải OSA (được chẩn đoán bằng nghiên cứu giấc ngủ) chuyển thành CSA khi được điều trị.
Trước hết, yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ra ngưng thở khi ngủ là tuổi tác, ước tính 30% số người trên 65 tuổi mắc phải tình trạng này. Nguyên do bởi khi có tuổi, các cơ của hầu họng mất trương lực khiến cho việc mở đường thở vào ban tối trở nên khó khăn khăn hơn. Chứng ngưng thở khi ngủ cũng thường mối liên quan tới các căn bệnh lý không không khác như đái tháo đường hoặc hội chứng chuyển hóa.
4. Hội chứng mệt mỏi mạn tính

Hội chứng mệt mỏi mạn tính (Chronic fatigue syndrome – CFS) thường hay căn bệnh không dung nạp gắng sức hệ thống (SEID)/căn bệnh viêm não tủy cơ là thuật ngữ dùng để mô tả tình trạng mệt mỏi nghiêm trọng, nhiều ngày, không có nguyên nhân về thể dinh dưỡng hoặc tâm lý và không phát hiện thất thường khách quan nào trong quá trình xét nghiệm lâm sàng hoặc phân tích trong phòng thí nghiệm. Những người mắc hội chứng mệt mỏi mạn tính có các triệu chứng thực sự:
Các triệu chứng mệt mỏi mạn tính có thể không không khác nhau tùy từng người và tình trạng nghiêm trọng của các triệu chứng có thể thay thế đổi tùy từng ngày. Ngoài tình trạng mệt mỏi, các triệu chứng có thể gồm:
- Kiệt sức trầm trọng sau khi vận động thể dinh dưỡng hoặc tinh thần
- Có vấn đề về trí nhớ hoặc nguy cơ tư duy
- Chóng mặt nặng hơn khi đổi tư thế từ ngồi xuống nằm hoặc ngồi sang đứng
- đau đớn cơ hoặc khớp
- Thức giấc không sảng khoái.
Mặc dù có tới 25% dân số mắc phải mệt mỏi mạn tính tuy vậy chỉ có khoảng tầm 0,5% dân số (cứ 200 người thì có 1 người) gặp phải hội chứng mệt mỏi mạn tính. Hội chứng này chủ yếu tác động tới nhóm tuổi từ 20 tới 50, thường gặp ở phụ nữ trẻ và trung tuổi nhiều hơn nam giới.
5. Hội chứng chân không yên
Đây là hội chứng mang tính dinh dưỡng gia đình, có thể mối liên quan tới vấn đề về thần kinh hoặc thiếu sắt. Hội chứng chân không yên khiến cho bạn khó khăn ngủ, ngủ không ngon giấc và gây ra buồn ngủ nhiều vào ban ngày.
6. Thiếu máu
Nhiều người đặt ra vấn đề tại sao ngủ nhiều lại mối liên quan tới thiếu máu. Nguyên do là bởi thiếu máu tiến hành giảm sút hồng cầu trong máu, dẫn tới giảm sút nồng độ hemoglobin và giảm sút số lượng oxy trong cơ thể. Khi hồng cầu thiếu, oxy mang tới cho cơ thể ít hơn và không liên tục, cơ thể mệt mỏi và buồn ngủ. Cơn buồn ngủ có thể lặp lại trong ngày và tác động tới uy tín cuộc sống cũng như công việc.
7. Thai kỳ
Khi phôi thai tiến hành tổ trong tử cung, cơ thể người mẹ sẽ tiết ra một vài lượng lớn progesterone để tiếp tục giữ thai kỳ. hàng đầu loại hormone này là vì sao khiến cho người mẹ mang thai trong thời kỳ đầu lúc nào cũng có cảm giác buồn ngủ, ngủ nhiều và mệt mỏi. Khi thai ngày càng lớn, cơ thể người mẹ trở nên nặng nề hơn và nên nghỉ ngơi nhiều hơn.
8. căn bệnh suy giáp
Suy giáp có thể gây ra ra các vấn đề về giấc ngủ. Người mắc phải suy giáp thường cảm xuất hiện mệt mỏi ngay khi thức dậy, dễ ngủ ngày và ngủ nhiều hơn số giờ ngủ trung bình của một người thường thì. Điều này dẫn tới khó khăn ngủ vào buổi tối, trong khi đó giấc ngủ sâu có nguy cơ tái tạo và phục hồi lại chiếm ưu thế trong giấc ngủ đêm.
Một khi giấc ngủ đêm không sảng khoái sẽ tác động tới sự tỉnh táo ban ngày và cứ thế lặp lại vòng luẩn quẩn ngủ nhiều ban ngày, ngủ kém ban tối, tiến hành tăng thêm tình trạng mệt mỏi mạn tính của người căn bệnh suy giáp.
9. Thừa cân béo phì

Nhiều người béo phì có hội chứng ngủ rũ được chẩn đoán mắc chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA) nhờ liệu pháp điều trị đúng căn bệnh sẽ nâng cao tốt nhất. Tuy nhiên, tỷ lệ người thừa cân béo phì không thể điều trị khỏi căn bệnh và tiếp tục ngủ rũ lại rất đáng nói. Chế độ ăn nhiều dinh dưỡng béo ở cả người và động vật được cho là có mối liên quan tới chứng ngủ rũ.
10. Đái tháo đường
căn bệnh tiểu đường khiến cho cơ thể thường xuyên rơi vào trạng thái rất mệt mỏi thường hay có thể gọi là mệt mỏi mạn tính. Nguyên nhân bởi vì số lượng đường trong máu cao tiến hành gián đoạn nguy cơ sử dụng đường để tạo ra năng số lượng cho tất cả vận động sống của cơ thể. Ngoài ra, mất nước do đi tiểu nhiều cũng có thể khiến cho cơ thể cảm xuất hiện mệt mỏi và muốn ngủ nhiều hơn.
11. căn bệnh tim mạch
Người căn bệnh tim mạch rất thường hay mệt mỏi và đôi lúc, trong một tỷ lệ, mệt mỏi còn là dấu hiệu lâm sàng đầu tiên của căn bệnh này. Điều này gây ra suy giảm sút uy tín cuộc sống và tiên số lượng của người căn bệnh. Mặc dù mệt mỏi về thể dinh dưỡng và tinh thần thường có mối quan hệ mật thiết với nhau, tuy vậy cả hai đều tương ứng với các cơ chế căn bệnh sinh lý không không khác nhau.
Mệt mỏi về thể dinh dưỡng do nhiều nguyên nhân như: nhịp tim nhanh khi tập thể dục thể thao, mất điều hòa cơ và vi tuần hoàn, rối loạn công dụng thần kinh nội tiết, các rối loạn chuyển hóa mối liên quan. Trong khi đó mệt mỏi về tinh thần tương ứng với các rối loạn tâm trạng và chủ yếu là trầm cảm.
12. Đột quỵ
Sau khi mắc phải đột quỵ, người căn bệnh sẽ mất một thời gian đối phó với chứng mệt mỏi. Mệt mỏi sau đột quỵ có thể mối liên quan tới những thay thế đổi về thể dinh dưỡng và cảm xúc sau đột quỵ, cũng như một vài yếu tố không không khác.
- Tác động vật lý của đột quỵ lên não và cơ thể gây ra ra tình trạng mệt mỏi trong những tuần và tháng đầu sau đột quỵ, khi não nên thời gian phục hồi
- Mệt mỏi sau đột quỵ có thể mối liên quan tới trạng thái tinh thần sa sút như chán nản, lo lắng, mất ngủ.
- Những thay thế đổi về giấc ngủ sau đột quỵ như mất ngủ, ngưng thở khi ngủ
- Tác dụng phụ của thuốc điều trị như thuốc chẹn beta điều trị huyết áp cao, thuốc động kinh và thuốc chống trầm cảm.
- Tình trạng sức khỏe sau đột quỵ như: thiếu máu (số lượng sắt trong máu thấp), đau đớn đầu, tiểu đường hoặc tuyến giáp vận động kém cũng có thể khiến cho cơ thể mệt mỏi.
Nguyên nhân ngủ nhiều vì đâu?
Ngủ nhiều tác động tiêu cực tới uy tín cuộc sống, sức khỏe tâm thần, năng suất lao động và đe dọa sự an toàn tính mạng. Do đó, nên thiết phải tìm ra nguyên nhân ngủ nhiều tiềm ẩn và lên phương án xử trí toàn diện tất cả các nguyên nhân này.
1. Nguyên nhân nguyên phát
Ngủ nhiều nguyên phát là ngủ nhiều có tình trạng riêng biệt, tức không phải do các tình trạng căn bệnh lý không không khác gây ra ra hoặc là triệu chứng của một tình trạng căn bệnh lý nào đó. Ngủ nhiều nguyên phát có 4 phân loại:

- Chứng ngủ rũ loại 1: Chứng ngủ rũ kèm chứng mất trương lực cơ (yếu cơ đột ngột) do não và dinh dưỡng dẫn truyền thần kinh hypocretin (còn gọi là orexin) trong dịch não tủy mắc phải thiếu hụt. điển hình của chứng ngủ rũ loại 1 là giấc ngủ ban ngày thường ngắn hơn và sảng khoái hơn so với giấc ngủ ngắn ban ngày xuất hiện trong các rối loạn ngủ nhiều quá mức không không khác và kèm theo ảo giác, chứng tê liệt khi ngủ.
- Chứng ngủ rũ loại 2: Chứng ngủ rũ này không kèm với chứng mất trương lực cơ và có các triệu chứng ít nghiêm trọng hơn, đồng thời hypocretin ở mức thường thì. Nếu ngủ rũ loại 1 thường gặp ở lứa tuổi từ 10 tới 25 thì chứng ngủ rũ loại 2 thường bắt đầu ở tuổi vị thành niên.
- Hội chứng Kleine-Levin: Ngủ nhiều quá mức tái phát thường xảy ra khi xuất hiện các rối loạn về tinh thần, hành vi và đôi lúc là tâm thần. Mỗi đợt xuất hiện, hội chứng có thể nhiều ngày khoảng tầm 10 ngày hoặc vài tuần, vài tháng và tái phát nhiều lần trong năm. Giữa các đợt tái phát, người căn bệnh vẫn tỉnh táo và vận động thường thì. Hội chứng này tác động chủ yếu tới nam giới trẻ tuổi.
- Ngủ nhiều vô căn (không rõ nguyên nhân): Người căn bệnh không cưỡng lại được cơn buồn ngủ tuy vậy không rõ vì sao, ngay cả khi từng ngủ quá nhiều (từ 9-10 giờ).
2. Nguyên nhân thứ phát
Ngủ nhiều là một kiểu rối loạn giấc ngủ có thể mối liên quan tới một vài tác động ngoại vi như:
- Thiếu ngủ nhiều ngày
- Kiệt sức và mệt mỏi thể dinh dưỡng
- Các tổn thương não hoặc tâm thần
- Các căn bệnh lý mối liên quan tới nhiễm trùng, nội tiết, chuyển hóa (suy giáp, tiểu đường, thận yếu hoặc tuyến tụy…)
- Tác dụng của những loại thuốc điều trị tâm thần hoặc lạm dụng thuốc ngủ, thuốc ngủ.
Ngủ nhiều thứ phát có những nguyên nhân sau:
- Tình trạng căn bệnh lý: Như từng nói, ngủ nhiều có thể do các căn bệnh lý gây ra ra như viêm não, u não, động kinh, căn bệnh Parkinson, suy giáp, đa xơ cứng, béo phì, ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, loạn dưỡng cơ, rối loạn di truyền, rối loạn tâm trạng. Ngoài ra, ngủ nhiều có thể là di chấn sau chấn thương đầu hoặc các căn bệnh về hệ thần kinh trung ương.
- Thuốc và rượu: một vài loại thuốc ngủ, thuốc chống động kinh, thuốc chống parkinson, thuốc chống tăng huyết áp, thuốc giãn cơ xương, thuốc chống loạn thần… có thể khiến cho chúng ta ngủ nhiều hơn mức thường thì. Ngoài ra, các dinh dưỡng kích thích cực mạnh như nên sa, thuốc phiện và rượu, các loại thuốc cai kích thích cũng có thể là nguyên nhân ngủ nhiều.
- Ngủ thiếu giấc: Thường xuyên chịu áp lực công việc, dùng caffeine để ngăn chặn cơn buồn ngủ một cách có chủ đích có thể khiến cho cơ thể ngủ thiếu giấc và có xu hướng ngủ nhiều ban ngày để bù lại.
Ngủ nhiều có tốt không?
Ngủ quá nhiều không mang lại lợi ích cho sức khỏe. Trước hết, ngủ quá nhiều không chấm dứt được tình trạng mệt mỏi mà ngược lại cơ thể còn hoàn toàn mất kiểm soát, có thể gửi những tín hiệu trái ngược lên não dẫn tới buồn ngủ suốt cả ngày. Kế tới, ngủ nhiều khiến cho cơn đau đớn đầu xuất hiện và nghiêm trọng hơn hoặc tiến hành tăng nguy cơ mắc căn bệnh như béo phì, tiểu đường, rối loạn chuyển hóa, các vấn đề về tim mạch.
không những tác động không tốt tới sức khỏe thể dinh dưỡng mà việc ngủ nhiều quá mức hơn 10 giờ mỗi ngày còn gây ra ra hậu quả về tâm lý như lo lắng, lo lắng và trầm cảm. Đồng thời, ngủ nhiều nhiều ngày có thể tiến hành suy giảm sút nhận thức, kém tập trung và tiềm ẩn tai nạn nghiêm trọng.
Tìm hiểu thêm: Ngủ nhiều có tốt không? Có tác động tới sức khỏe không?
Một ngày nên ngủ bao nhiêu là đủ?
Không có thời số lượng giấc ngủ lý tưởng chung tất cả tất cả người. Ngủ bao nhiêu là đủ với mỗi người đều có sự không không khác nhau về mặt sinh học. Tuy vậy, vẫn có định mức chung để quy chiếu. Một người trưởng thành gọi là ngủ đủ nếu ngủ ngon giấc từ 7-9 giờ, tuy vậy trên thực tế thời số lượng này có thể dao động ít hoặc nhiều hơn.
Càng lớn tuổi, nhu cầu giấc ngủ càng ngắn hơn lúc trẻ. Một đứa trẻ sơ sinh cũng có thời số lượng giấc ngủ không không khác biệt so với trẻ nhỏ từ 1-5 tuổi. Theo bảng giấc ngủ lý tưởng thì ngủ đủ theo lứa tuổi cụ thể như sau: (3)
- Trẻ sơ sinh (0-3 tháng): ngủ từ 14-17 giờ
- Trẻ sơ sinh (4-11 tháng): ngủ từ 12-15 giờ
- Bé (1-2 tuổi): ngủ từ 11-14 giờ
- Trẻ mẫu giáo (3-5 tuổi): ngủ 10-13 giờ
- trẻ nhỏ trong lứa tuổi đi học (6-13 tuổi): ngủ 9-11 giờ
- Thanh thiếu niên (14-17 tuổi): ngủ 8-10 giờ
- Người lớn: ngủ từ 7-9 giờ
Cách chẩn đoán căn bệnh thường xuyên ngủ quá nhiều
Việc đưa ra những vấn đề kiểm tra tình trạng của người căn bệnh, là một trong những cách chẩn đoán bước đầu tình trạng ngủ nhiều do căn bệnh lý và để quản lý đúng cách chứng rối loạn giấc ngủ. Ngoài ra, tùy thuộc vào các triệu chứng, bác sĩ có thể chỉ định các kiểm tra cận lâm sàng không không khác nhau để chẩn đoán ngủ nhiều là căn bệnh gì.
- Kiểm tra thang điểm Epworth (ESS): Được sử dụng rộng rãi nhất để phản hồi tình trạng buồn ngủ và tỉnh táo ban ngày. Bảng vấn đề giúp cho ước tính nguy cơ buồn ngủ trong cuộc sống hàng ngày. Nếu tổng điểm cao hơn 10/24 trong thang điểm, chứng tỏ chứng ngủ nhiều vào ban ngày nên được can thiệp điều trị.
- Trắc nghiệm rối loạn giấc ngủ (PSQI): Gồm các vấn đề trắc nghiệm rối loạn giấc ngủ được chia thành 2 phần. Để có được kết quả chuẩn xác nhất, người căn bệnh chọn lựa các đáp án đúng với tình trạng giấc ngủ của cá nhân trong thời gian gần nhất.
- Kiểm tra độ trễ giấc ngủ nhiều lần (MSLT): Đây là bài kiểm tra phản hồi tốc độ chìm vào giấc ngủ trong môi trường yên tĩnh vào ban ngày. Bài kiểm tra gồm có 4 giấc ngủ ngắn, cách nhau 2 giờ (9 giờ sáng, 11 giờ sáng, 1 giờ chiều và 3 giờ chiều) nhiều ngày 20 phút mỗi lần ngủ.
- Đo tổng thể giấc ngủ: Kiểm tra giấc ngủ hoàn chỉnh tất cả các thông số về đêm như nhịp thở, oxy hóa, chuyển động của cơ thể (điện cơ đồ), chuyển động của mắt (điện nhãn đồ) và vận động của não (điện não đồ).
- Đo đa ký giấc ngủ: Bài kiểm tra gồm dòng điện não (vận động của não bộ), nhịp tim, các chuyển động của mắt, nồng độ oxy trong máu, lưu số lượng không khí qua miệng và mũi, âm thanh tiếng ngáy…
- Kiểm tra độ mỏi (Pichot): Thang đo tình trạng mệt mỏi Pichot là một bảng vấn đề gồm 8 mục, giúp cho phản hồi cường độ mệt mỏi cũng như tác động của nó với cuộc sống hàng ngày của con người. Tổng số điểm lớn hơn 22 cho xuất hiện tình trạng mệt mỏi quá mức, nên tham khảo ý kiến chuyên gia.
- Kiểm tra trầm cảm: Sàng lọc trầm cảm có thể dựa trên bảng vấn đề thang đo trầm cảm Hamilton. Đây là bài kiểm tra đòi hỏi có sự tư vấn của chuyên gia.
Cách điều trị căn bệnh ngủ nhiều
Điều trị liên tục với chứng ngủ rũ: Nếu ngủ nhiều do chứng ngủ rũ thì việc điều trị liên tục là một phần thường thì với những người mắc hội chứng này.

Dùng thuốc giúp cho tỉnh táo: với những người căn bệnh ngủ nhiều không không khác, bác sĩ có thể chỉ định một vài loại thuốc có thể giúp cho tỉnh táo. Tuy nhiên, đây chỉ là thuốc giúp cho giảm sút cơn buồn ngủ, có thể gây ra đau đớn đầu, nôn và buồn nôn hoặc phát ban. Mặc dù tương đối an toàn tuy vậy muốn dùng thuốc phải được bác sĩ theo dõi chặt chẽ.
Bác cũng có thể chỉ định người căn bệnh dùng thuốc melatonin lập trình lại đồng hồ sinh học. Melatonin bắt đầu tiết ra khi trời dần tối và giữ suốt đêm, đạt cực đại lúc 3 giờ sáng. Đây là một loại hormone rất quan trọng để sắp cho cơ thể đi vào giấc ngủ, giúp cho hạ thân nhiệt, giảm sút hormone gây ra lo lắng (cortisol) và thậm chí cả huyết áp. Thuốc melatonin sẽ giúp cho người rối loạn giấc ngủ, thức đêm, lệch múi giờ lập trình lại đồng hồ sinh học. (4)
Người căn bệnh phải tham vấn bác sĩ về những trường hợp chống chỉ định và cách dùng. Thông thường thuốc chỉ dùng trong một thời gian ngắn, với liều dưới 1 mg và có tác dụng từ 2-4 giờ trước khi đi ngủ.
công nghệ giúp cho cân bằng giấc ngủ
Trong trường hợp ngủ nhiều gây ra nguy hiểm do mất an toàn, nên phải điều chỉnh cuộc sống hàng ngày bằng các công nghệ cân bằng giấc ngủ tốt nhất:
- Tìm tín hiệu kích hoạt giấc ngủ: Sự lặp lại cho phép cơ thể ghi lại các tín hiệu thông báo bắt đầu giấc ngủ ban tối.
- Thúc đẩy những thói quen tốt để có giấc ngủ ngon: Cơ thể và bộ não phải thiết lập những thói quen giúp cho điều chỉnh đồng hồ sinh học của mỗi người.
- Học cách đối phó tốt hơn với chứng mất ngủ: Tìm ra các giải pháp nâng cao thay thế vì lo lắng, buồn bực.
Những việc cụ thể có thể tiến hành ngay để nâng cao giấc ngủ:
sắp ngủ:
- Tránh các dinh dưỡng kích thích vào cuối ngày (trà, vitamin C, đồ uống có chứa caffein, thuốc lá, rượu…)
- Bữa ăn tối nên ăn nhẹ, không thịnh soạn, không nhiều dầu mỡ tuy vậy vẫn giữ gìn đủ no
- Nếu muốn tìm kiếm thông tin trên internet, liên hệ với bạn bè, chơi game, kiểm tra điện thoại di động… thì tranh thủ 1 tiếng trước khi ngủ
- Tắt các thiết mắc phải phát ra âm thanh trong giờ ngủ
- Tập thể dục thể thao trong ngày hoặc giãn cơ vào cuối ngày, tuy vậy không được sau 5 giờ chiều
- Thúc đẩy các vận động thư giãn (đọc sách, nhạc nhẹ, trò chơi board game, thiền…) vào cuối ngày
- Tránh xung đột trong các mối quan hệ nhất là vào cuối ngày
- Ngâm chân trước khi ngủ
- Tạo không gian mát mẻ, yên tĩnh, hạn chế ánh sáng trong phòng ngủ, thông gió phòng ngủ mát mẻ từ 18°C-19°C.
Đi ngủ:
- Tuân thủ lịch ngủ điều độ, ngay cả vào cuối tuần.
- Tránh thức khuya tiến hành gián đoạn lịch trình giấc ngủ của bạn.
- Lên kế hoạch cho thời gian ngủ 8 tiếng (nhiều thường hay ít tùy theo nhu cầu) và đạt mục tiêu dần dần;
- Chỉ đi ngủ khi cảm xuất hiện mệt mỏi;
- Tránh xem tivi, lướt điện thoại, lao động trên máy tính ngay trên giường và dành phòng ngủ chỉ để ngủ;
- Không để vật nuôi trong phòng ngủ và nhất là trên giường vì chúng có nhịp ngủ không không khác và có thể đánh thức chúng ta giữa đêm.
Nếu bạn thức dậy vào ban tối, có thể sử dụng các mẹo sau:
- Cố gắng ngủ lại bằng cách tập trung lại vào cơ thể và thư giãn
- Nếu không thể quay lại giấc ngủ, nên: Ra khỏi giường và thư giãn (đọc sách, âm nhạc…) trong bầu khí êm dịu và nhẹ nhàng; sau đó xuất hiện trở lại giường ngủ ngay khi muốn ngủ lại
- Rời khỏi giường ngay khi thức vào buổi sáng.
Để đặt lịch xét nghiệm, điều trị tại Hệ thống phòng xét nghiệm Đa khoa Hưng Thịnh, Quý khách vui lòng liên hệ:
HỆ THỐNG phòng xét nghiệm ĐA KHOA Hưng Thịnh
Hy vọng những thông tin trên sẽ giúp cho bạn giải đáp ngủ nhiều là căn bệnh gì thường hay do căn bệnh gì. Người ngủ quá nhiều nên đi xét nghiệm bác sĩ chuyên khoa thần kinh để được tư vấn điều trị phù hợp.