Ám ảnh nhất với anh Thái Tiến Dũng, 43 tuổi, trong suốt 17 năm mỗi lần vợ mang thai, là câu “đình chỉ thai kỳ” của bác sĩ.
Cưới nhau từ 2006, trong ba năm, vợ anh Dũng (ngụ TP HCM) sảy thai tới hai lần, không rõ nguyên nhân. 5 năm sau, gia đình đón con trai đầu lòng, tuy vậy niềm vui nhanh chóng vụt tắt.
Ngày mất con, anh giấu vợ, lẳng lặng về nhà dọn sạch đồ sơ sinh mua trước đó. Vợ anh, vết mổ sau sinh vừa cắt chỉ, đã từng phải từ biệt núm ruột mới chào đời 14 ngày.
“Bé không thể sống”, anh Dũng nhắc. Con anh qua đời vì xuất huyết não do rối loạn bẩm sinh thường ít gặp, được xác định là thiếu yếu tố đông máu số 7.
Vợ ông xã anh cùng mang đột biến gene lặn – trường hợp rất hiếm, 300.000-500.000 người mới có một ca. Con sinh ra có 25% nguy cơ gặp phải thiếu yếu tố đông máu. Nhẹ thì xuất huyết tiêu hóa, nặng thì thấy máu não, khó khăn sống sót ngay từ những tháng đầu sau sinh. Con anh Dũng rơi vào 25% này.
nhắc từ đó, họ bước vào một thập kỷ lặn lội ngược xuôi để thực hiện hóa giấc mơ được thực hiện phụ huynh. Vợ ông xã anh lẽ ra đã từng có 7 đứa con, nếu tất cả đều được ra đời trọn vẹn.
Hai năm sau khi mất đứa con đầu, vợ anh mang thai lần thứ tư, tuy vậy căn chứng bệnh cũ vẫn đeo bám. Thương vợ, anh nghe theo lời khuyến khích của bác sĩ, đồng ý đình chỉ thai kỳ.
Không từ bỏ hy vọng, năm 2015, vợ anh mang bầu lần thứ năm. Khi thai nhi 16 tuần, bác sĩ lại phát hiện tình trạng tương tự, một lần nữa khuyến khích chấm dứt thai kỳ. tuy vậy lần này, anh chị quyết tâm giữ con.
“Chúng tôi chấp nhận đánh đổi để có được cảm giác bế con trên tay, dù không lành lặn, hoặc không sống được bao lâu”, anh nói. Bốn lần mất con, họ khao khát có một đứa trẻ.
Hai tuổi, bé sống “như một cái cây”, chỉ nằm yên một chỗ để truyền máu, không thể nói chuyện. Vợ ông xã anh bán nhà, chuyển sang ở gần trung tâm y tế để chạy trị cho con. tuy vậy tất cả đổ sông đổ bể. Bé dần suy kiệt và rời bỏ mẹ cha khi mới 4 tuổi. Một lần nữa, anh chị phải tiễn biệt khúc ruột của mình.
Tỷ lệ vô sinh hiếm muộn của các đôi vợ ông xã trong lứa tuổi sinh đẻ ở Việt Nam là 7,7% – khoảng tầm một triệu cặp, theo Bộ Y tế. trong số đó, hơn 50% là hiếm muộn thứ phát, tức đã từng có thai hoặc đẻ con ít nhất một lần tuy vậy không thể có con tiếp, tăng 15-20% mỗi năm. Anh Dũng và vợ nằm trong số này. không tương tự với những đôi vợ ông xã vô sinh nguyên phát (không mang thai sau một năm chung sống), gia đình anh đối diện với hoàn cảnh oái oăm hơn: mang bầu, tuy vậy không dám sinh con.
Nỗi khao khát có con của những cặp vợ ông xã như anh Dũng là động lực nuôi dưỡng ngành điều trị hiếm muộn tiến triển ba thập kỷ qua, trở thành nền công nghiệp triệu USD tại Việt Nam.
“Mỗi lần tư vấn hai vợ ông xã chấm dứt thai kỳ thật sự rất khó khăn, bởi tôi biết vợ Dũng vô cùng xin muốn được thực hiện mẹ. Sau khi mất con, hai vợ ông xã đều trầm cảm, tôi kêu đi điều trị đi, Tiếp đó quay lại thực hiện thụ tinh trong ống nghiệm (IVF). Ít nhất vẫn còn có hy vọng”, bác sĩ Quách Thị Hoàng Oanh (Phó khoa Xét nghiệm di truyền y học, trung tâm y tế Từ Dũ) – người điều trị cho vợ ông xã anh Dũng từ năm 2011, cho thấy.
IVF là phương pháp hỗ trợ sinh sản bằng cách phối hợp tinh trùng của ông xã và trứng của vợ trong phòng thí nghiệm, Tiếp đó đưa phôi vào tử cung để bắt đầu thai kỳ. Đây là kỹ thuật trung tâm xử trí tất cả nguyên nhân vô sinh tại Việt Nam.
Anh Dũng tìm hiểu cách xử lý các ca tương tự trên thế giới, và biết kỹ thuật chuyên sâu của IVF giúp cho “đọc” thất thường trong gene và nhiễm sắc thể, gọi là chẩn đoán di truyền trước thực hiện tổ (PGT). Nhờ đó, bác sĩ có thể sàng lọc và lựa chọn ra phôi khỏe mạnh, không có gene chứng bệnh di truyền, để chuyển vào tử cung người mẹ. Anh tính đưa vợ sang Malaysia điều trị.
tuy vậy, may mắn đã từng mỉm cười với anh chị. Cuối năm 2019, trung tâm y tế Từ Dũ đạt bước tiến mới trong công nghệ IVF khi lần đầu tiên thực hiện thành quả PGT, mở ra cánh cửa hy vọng cho hai vợ ông xã. Lần đầu, bác sĩ chỉ lựa chọn được một phôi, song thất bại. Không nản lòng, một năm sau, khi anh Dũng đã từng ngoài 40, còn vợ bước sang tuổi 39, họ quyết tâm thử thêm lần nữa.
“Vợ ông xã tôi không bỏ cuộc”, anh nói.
lựa chọn được hai phôi để đặt vào tử cung mẹ, cả bác sĩ, người chứng bệnh đều hồi hộp. Tuần thứ 16, xét nghiệm nước ối cho xuất hiện phôi tuy không hoàn toàn thường thì tuy vậy đều mang gene lặn tương tự phụ huynh, tức bé có thể sinh ra và to lên khỏe mạnh. Hai năm sau khi mất đứa con thứ năm, họ lại nuôi hy vọng.
Tháng 5/2022, bé chào đời, vợ ông xã anh một lần nữa được thực hiện phụ huynh. Ngày bế con trên tay, họ không dám tin.
“Chỉ có lần này tôi được ôm con khỏe mạnh về nhà”, anh Dũng không giấu được xúc động, nói về thời điểm trút bỏ được gánh nặng nhiều ngày cả thập kỷ. Tổng cộng, gia đình anh tốn hơn 2 tỷ đồng cho giấc mơ thực hiện phụ huynh.
Con anh Dũng nằm trong số hơn 16.300 “em bé ống nghiệm” chào đời trong 30 năm qua nhờ công nghệ IVF tại trung tâm y tế Từ Dũ – nơi đặt nền móng cho ngành điều trị hiếm muộn tại Việt Nam.
“Hồi đó IVF là một khái niệm xa lạ, gặp phải phản đối kịch liệt, vì nhà nước đang chú trọng kế hoạch hóa gia đình, phòng tránh thai, triệt sản”, GS.BS Nguyễn Thị Ngọc Phượng (nguyên giám đốc trung tâm y tế Từ Dũ) nhắc.
Tiếp xúc hàng nghìn cặp vợ ông xã hiếm muộn từ những năm 1980, bác sĩ Phượng xuất hiện vô sinh tương tự như lời nguyền đeo bám người phụ nữ, tác động nặng nề tới hôn nhân. Bà quyết định ngược dòng dư luận, tìm cách đưa công nghệ trị hiếm muộn về Việt Nam.
Năm 1994, bà được tiếp cận IVF tại Pháp, tự bỏ tiền mua máy móc, mời đoàn chuyên gia về nước hỗ trợ. Bốn năm sau, ba “em bé ống nghiệm” đầu tiên ra đời, đánh dấu bước ngoặt lịch sử cho ngành điều trị hiếm muộn.
Từ một lĩnh vực gặp phải phản đối, IVF tiến triển bùng nổ từ Nam ra Bắc, trở thành phương pháp hỗ trợ sinh sản hàng đầu cả nước. Hơn 10 năm trước, Việt Nam có 18 địa điểm thực hiện kỹ thuật IVF và mang thai hộ vì mục đích nhân đạo. Từ năm 2010, con số này tăng liên tục mỗi năm và hiện có 51 đơn vị.
Theo Bộ Y tế, tỷ suất sinh có sự can thiệp của hỗ trợ sinh sản tăng từ 2,11 năm 2010 lên 2,29 năm 2020 – tức bình quân một phụ nữ thực hiện hỗ trợ sinh sản thì có 2,29 bé chào đời.
Quá trình trở nên và bản đồ 51 địa điểm y tế thực hiện IVF tại Việt Nam
Bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Tổng thư ký Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP HCM (HOSREM), cho thấy mỗi năm Việt Nam thực hiện hơn 50.000 trường hợp IVF mới, cao hơn nhiều nước. Còn ông Nguyễn Viết Tiến (Chủ tịch Hội Phụ sản Việt Nam, nguyên thứ trưởng Bộ Y tế) dựa trên thống kê xã hội học, ước tính mỗi năm Việt Nam có 1-1,4 triệu trẻ nhỏ ra đời, trong số đó khoảng tầm 3% (30.000-42.000 bé) bằng IVF.
Sự tăng trưởng mạnh mẽ này, theo bác sĩ Nguyễn Việt Quang (Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia, trung tâm y tế Phụ sản Trung ương), xuất phát từ ba nguyên do. Thứ nhất, số số lượng trung tâm IVF “nở rộ” từ Nam ra Bắc giúp cho các cặp vợ ông xã dễ tiếp cận với phương pháp hỗ trợ sinh sản hơn. Thứ hai, tỷ lệ vô sinh do chứng bệnh lý ngày càng tăng ở cả nam và nữ, cùng với môi trường lao động phải tiếp xúc với hóa dưỡng chất độc hại, đã từng thực hiện tăng nguy cơ hiếm muộn.
Cuối cùng là sự tiến triển du lịch y tế. Việt Nam đang nổi lên như điểm tới hứa hẹn cho du khách muốn được điều trị y tế, trong số đó có trị hiếm muộn, thực hiện đẹp… do phí phù hợp, dịch vụ tốt. Các hãng du lịch cũng hợp tác với trung tâm y tế, phòng xét nghiệm để thiết kế tour nhằm quảng bá tin cậy của các địa điểm này.
Mỗi lần chuyển phôi hiện có giá 70-100 triệu đồng. phí giữa trung tâm y tế công và tư tương đương nhau bởi đây là ngành tương đối cạnh tranh. Trung bình, một cặp vợ ông xã chuyển phôi 1-2 lần sẽ thành quả, tuy vậy không ít trường hợp phải thực hiện nhiều hơn. Ngoài IVF, mỗi kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cũng có phí và tỷ lệ thành quả không tương tự nhau như di truyền, sàng lọc phối hợp, IUI (bơm tinh trùng vào buồng tử cung), ICSI (tiêm tinh trùng vào bào tương noãn), IVM (kỹ thuật trưởng thành trứng non trong ống nghiệm), trữ lạnh phôi, tinh trùng… Tuy nhiên, tất cả kỹ thuật IVF của Việt Nam đều có phí thuộc nhóm thấp nhất thế giới.
phí điều trị các kỹ thuật IVF tại Việt Nam và một vài nước không tương tự
Sau ba thập kỷ, doanh thu quốc gia của ngành IVF năm 2022 đạt hơn 132 triệu USD, dự kiến sẽ đạt tốc độ tăng trưởng trung bình hàng năm 7,47%, theo báo cáo của Research and Market (công ty nghiên cứu thị trường quốc tế của Mỹ). Tỷ lệ này cao hơn kỳ vọng tăng trưởng 5,72% mỗi năm của thị trường IVF toàn cầu từ nay tới 2030. Báo cáo cũng đưa ra dự báo giá trị thị trường của Việt Nam vào năm 2028 có thể lên tới gần 203 triệu USD.
“Điều trị hiếm muộn của Việt Nam đang trở thành ngành công nghiệp triệu đô, được phản hồi tăng trưởng mạnh trong thời kỳ 2023-2027”, bác sĩ Nguyễn Việt Quang nói. Hệ thống trung tâm điều trị hiếm muộn của Việt Nam hiện thuộc top đầu Đông Nam Á (ASEAN) về số ca, và tỷ lệ thành quả trên số chu kỳ thực hiện IVF lên tới 40-50%, tăng ba lần so với thời kỳ đầu (10-13%). Tỷ lệ trên thế giới hiện là 40-43%.
Số ca IVF giữa Việt Nam và một vài nước trên thế giới
Theo nguyên thứ trưởng Y tế Nguyễn Viết Tiến, nhiều người chứng bệnh hiếm muộn nước ngoài đã từng lựa chọn Việt Nam thực hiện điểm tới vì kinh phí rẻ. Mới đây, ông điều trị thành quả cho đôi vợ ông xã quốc tịch Nam Phi ngoài 40 tuổi. Người vợ gặp phải rối loạn tác dụng phóng noãn, tắc vòi trứng, phải nhờ tới công nghệ IVF. Họ vừa đón con đầu lòng. Trước đó, một đôi vợ ông xã người Lào thực hiện IVF không thành quả ở Thái Lan, tới Việt Nam trị trị và cũng có tin vui ngay lần đầu chuyển phôi.
Từ góc nhìn chuyên môn, PGS.TS Vương Thị Ngọc Lan (Khoa Y, Đại học Y Dược TP HCM) cho thấy rất nhiều Việt kiều đã từng về thực hiện IVF vì Việt Nam có kỹ thuật chuyên sâu, thậm chí dẫn đầu thế giới về IVM. Việt Nam cũng là nước có số số lượng công bố khoa học quốc tế nhất khu vực, nhiều bác sĩ, chuyên viên các nước không tương tự sang học hỏi.
“Nếu phản hồi theo khía cạnh kinh tế, điều trị hiếm muộn là một ngành rất tiềm năng”, bác sĩ Lan nói.
Tuy nhiên, dù kỹ thuật tốt, tổng phí mỗi lần chuyển phôi thực hiện IVF chỉ bằng 20-50% các nước trong khu vực, tuy vậy Việt Nam vẫn không phải điểm tới hấp dẫn trên bản đồ điều trị hiếm muộn quốc tế. Nguyên nhân được cho là ngành du lịch y tế chưa được đầu tư và quy hoạch để tiến triển đồng bộ, chủ yếu tự phát theo nhu cầu và tiềm năng.
Dẫn số liệu thống kê, bác sĩ Hồ Mạnh Tường cho thấy, hàng năm Việt Nam có khoảng tầm 400 người nước ngoài tới xét nghiệm và điều trị hiếm muộn tại các trung tâm y tế, trung tâm y tế (chiếm 1-2%).
Con số này thấp hơn nhiều so với Thái Lan, nơi có 60-70% người chứng bệnh thực hiện IVF là người ngoại quốc. Tổng cục Du lịch Thái Lan từng công bố dịch vụ thụ tinh nhân tạo đã từng giúp cho nước này có thêm ít nhất 20 tỷ baht (khoảng tầm 611 triệu USD) trong năm 2018 nhờ tiến triển du lịch, nghỉ dưỡng phối hợp điều trị IVF. Tương tự, tại Malaysia, ước tính 30-40% trường hợp IVF là người nước ngoài.
Còn Trung Quốc – nơi mang lại hơn một triệu chu kỳ IVF với khoảng tầm 300.000 em bé được thụ thai mỗi năm, tuyên bố sẽ xây dựng địa điểm mang lại IVF cho 2,3 tới 3 triệu người vào năm 2025. Quyết định được đưa ra trong bối cảnh quốc gia tỷ dân đang phải đối mặt với hàng loạt thách thức khi tỷ lệ sinh quá thấp.
Trong tương lai, Việt Nam có nguy cơ đối mặt với thách thức tương tự Trung Quốc khi 30 năm qua, mức sinh giảm sút gần một nửa, từ 3,8 con mỗi phụ nữ vào năm 1989 xuống còn 2,01 con vào năm 2022. Trong khi đó, Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ vô sinh cao trên toàn cầu và ngày càng trẻ hóa, theo Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Dự báo năm 2050, số người trên 60 tuổi sẽ chiếm 1/4 dân số, đặt ra bài toán tăng dân số để cân bằng lực số lượng lao động.
Xu hướng giảm sút tỷ lệ sinh của Việt Nam và Trung Quốc 70 năm qua
Dù phí IVF tại Việt Nam rẻ hơn so với thế giới, các chuyên gia cho rằng mức giá này vẫn quá sức với nhiều cặp vợ ông xã có thu nhập thấp. Một lần điều trị có phí tương đương thu nhập bình quân đầu người một năm (năm 2022 là gần 100 triệu đồng). Trong khi, một ca thành quả có thể phải chuyển phôi nhiều lần, tức tiêu tốn vài trăm triệu tới cả tỷ đồng.
Phòng lao động rộng 30 m2 của anh Nguyễn Thái Mạnh (37 tuổi, Hà Nội) dưỡng chất đầy những tập giấy xét nghiệm trị chứng bệnh dày cộp, được xếp ngay ngắn. Chúng nhắc nhở vợ ông xã anh về hành trình 6 năm điều trị vô sinh.
Ba năm sau lấy vợ, vợ ông xã anh mới phát hiện không thể có con tự nhiên. Uống nhiều loại thuốc bổ tuy vậy vô ích, họ tới Trung tâm Hỗ trợ Sinh sản Quốc gia, trung tâm y tế Phụ sản Trung ương, xét nghiệm. Vợ anh được xác định tắc vòi trứng, phải can thiệp bằng tiểu phẫu. Niềm vui mỉm cười khi một năm sau, họ đón đứa con đầu lòng.
Hành trình tìm con thứ hai gặp nhiều gian nan. Năm 2016, anh chị muốn sinh con tự nhiên tuy vậy nhiều lần thất bại. Bác sĩ chẩn đoán vô sinh không rõ nguyên nhân. Hai vợ ông xã tìm tới IVF. Từ đó, mỗi năm họ tới viện thực hiện thụ tinh nhân tạo một lần, có năm hai lần.
Trong 6 năm, tổng cộng vợ anh Mạnh 7 lần chuyển phôi (70-100 triệu đồng/lần), song đều thất bại. “Không phải muốn và có tiền là thực hiện được ngay. Vất vả vô cùng”, anh Mạnh nói.
Năm 2022, anh xác định đây là lần cuối thực hiện IVF, bởi vợ đã từng gần 40 – lứa tuổi không còn lý tưởng cho sinh sản. Phôi trữ đông của hai người cũng chỉ còn đủ cho một lần chuyển vào tử cung. May mắn mỉm cười ở lần thứ 8, vợ anh mang bầu và sinh một bé gái xinh xắn.
Gia đình anh Mạnh tốn tổng cộng gần một tỷ đồng để “tìm” con, trong khi vợ ông xã anh Dũng mất hơn 2 tỷ trong 10 năm điều trị hiếm muộn. Giấc mơ thực hiện phụ huynh không hề rẻ với những cặp vợ ông xã vô sinh hiếm muộn, cả về vật dưỡng chất lẫn tinh thần.
“phí điều trị chứng bệnh này tại Việt Nam thấp hơn nhiều nước, song vẫn là rào cản rất lớn với các người chứng bệnh”, nguyên thứ trưởng Nguyễn Viết Tiến nhìn nhận.
Nghịch lý là, người chứng bệnh điều trị các chứng bệnh như mổ bóc u xơ mà không có nhu cầu sinh con thì được bảo hiểm y tế (BHYT) chi trả, tuy vậy nếu kèm theo điều trị vô sinh thì phải tự thanh toán toàn bộ phí. BHYT hiện không hỗ trợ bất kỳ kỹ thuật nào trong quy trình điều trị hiếm muộn, trong khi nhiều nguyên nhân tới từ các chứng bệnh lý: u buồng trứng, u xơ tử cung, polyp buồng trứng…
Trên thế giới, nhiều nước coi hiếm muộn là chứng bệnh lý và dùng BHYT chi trả cho người chứng bệnh. Ví dụ, Pháp cho IVF tới 4 lần, sang lần thứ 5 người chứng bệnh mới phải trả tiền. Trung Quốc cũng đưa 16 dịch vụ hỗ trợ sinh sản vào hạng mục được BHYT chi trả từ năm 2022.
Theo ông Tiến, ở nước ngoài, mệnh giá đóng bảo hiểm cao nên các dịch vụ này được BHYT chi trả. Năng lực bảo hiểm của Việt Nam chưa thể bao phủ được một vài dịch vụ, trong số đó có IVF, với mệnh giá đóng bảo hiểm hiện tại. “Trước mắt, BHYT nên chi trả cho cả người chứng bệnh hiếm muộn tuy vậy có chứng bệnh lý tương tự những người không tương tự. Nếu bảo hiểm có nguy cơ thì cần phải quan tâm tới người này trong tương lai”, ông nêu quan niệm.
Ngoài ra, mạng lưới điều trị hiếm muộn của Việt Nam chưa bao phủ hết cho số người chứng bệnh có nhu cầu. Việt Nam có một triệu cặp vợ ông xã vô sinh tuy vậy nguy cơ điều trị trung bình mỗi năm của 50 địa điểm chỉ ở mức 50.000 ca, chiếm 5%. Chưa nhắc rào cản địa lý khi các trung tâm điều trị vô sinh hiếm muộn chủ yếu ở thành phố lớn, vắng bóng ở miền núi, vùng sâu, xa. Về lâu dài, đây sẽ trở thành vấn đề lớn khi dân số bước vào thời kỳ già.
“Việt Nam không cần phải tăng số số lượng trung tâm hỗ trợ sinh sản. Quan trọng là nâng cấp trình độ, năng lực điều trị cho bác sĩ, thực hiện chủ tất cả kỹ thuật để không phải chuyển người chứng bệnh lên tuyến trên”, ông Tiến nói.
Trong khi đó, GS.TS Nguyễn Thị Ngọc Phượng xin muốn mỗi tỉnh có một trung tâm điều trị và thêm nhiều chương trình tài trợ cho các cặp vợ ông xã nghèo hiếm muộn.
“Có con để hạnh phúc, vậy chẳng lẽ người nghèo không xứng đáng được hưởng hạnh phúc thường sao?”, bà đặt vấn đề.
Hơn một thập kỷ tìm con, vợ ông xã anh Thái Tiến Dũng mất nhiều thứ, gồm cả căn nhà mà hai vợ ông xã ở từ ngày mới cưới. Tuy nhiên, họ chưa bao giờ tiếc nuối. Những người nuôi giấc mơ thực hiện phụ huynh như anh chị sẵn sàng trả tất cả giá để được hưởng niềm hạnh phúc ấy.
6 tháng sau khi “em bé IVF” chào đời, vợ anh Dũng mang thai tự nhiên thêm một bé gái, ra đời bình an. Anh cho rằng, đứa con “thụ tinh trong ống nghiệm” chủ yếu là phước lành lớn nhất của vợ ông xã trong hành trình 16 năm xin con.
Nội dung: Thúy Quỳnh – Mỹ Ý – Lê Nga
Đồ họa: Hoàng Khánh – Mạnh Cường
Về dữ liệu: Dữ liệu trong bài này được mang lại bởi Bộ Y tế; bác sĩ Nguyễn Việt Quang (Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ sinh sản Quốc gia, trung tâm y tế Phụ sản Trung ương); trung tâm y tế Từ Dũ; Hội Nội tiết sinh sản và vô sinh TP HCM (HOSREM).