Các chỉ số đông cầm máu rất quan trọng phản ánh nguy cơ cầm máu của cơ thể. Để nhận xét quá trình đông máu, sử dụng những chỉ số để nhận xét. Thông thường, quá trình này xảy ra trong khoảng tầm vài phút, nhưng mà có thể thay thế đổi tùy thuộc vào nhiều yếu tố như tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, thuốc đang sử dụng và các chứng bệnh lý mối quan hệ. Vậy thời gian đông máu trung bình là bao nhiêu? Những yếu tố nào tác động tới quá trình này? Hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây với sự tư vấn từ chuyên gia y tế.
Thời gian đông máu là sao?
Thời gian đông máu là thời điểm cần phải thiết để máu chuyển từ trạng thái lỏng sang trạng thái đông đặc nhằm ngăn chặn ra máu. Đây là một quá trình sinh lý quan trọng giúp cho cơ thể cầm máu khi gặp phải tổn thương, tránh thiếu máu quá mức và giữ an toàn hệ tuần hoàn. Theo các chuyên gia y tế, quá trình đông máu trải qua ba thời kỳ chủ yếu:
- thời kỳ cầm máu đầu tiên: Thành mao mạch gặp phải tổn thương sẽ co lại để hạn chế số lượng máu chảy ra ngoài. Đồng thời, tiểu cầu tập trung tại vị trí tổn thương để tạo nút chặn tạm thời.
- thời kỳ trở nên cục máu đông: Hệ enzym trong máu kích hoạt một chuỗi phản ứng giúp cho tạo sợi fibrin, liên kết với tiểu cầu để trở nên cục máu đông ổn định.
- thời kỳ tan cục máu đông: Khi vết thương lành, cục máu đông sẽ dần tan đi nhờ hệ thống tiêu sợi huyết, giúp cho tuần hoàn máu trở lại thông thường.
Thời gian đông máu là một chỉ số quan trọng giúp cho nhận xét nguy cơ cầm máu của cơ thể. Nếu gặp dấu hiệu không thông thường mối quan hệ tới đông máu, hãy tới địa điểm y tế để được kiểm tra và tư vấn từ chuyên gia.

Thời gian đông máu là bao nhiêu phút?
Thời gian đông máu trung bình sẽ dao động từ 4 – 10 phút, tuy nhiên các chỉ số xét nghiệm chi tiết có thể thay thế đổi tùy vào từng phương pháp đo. Cụ thể, thời gian đông máu có thể được nhận xét qua nhiều xét nghiệm không tương tự nhau, gồm:
- Thời gian máu chảy (BT – Bleeding Time): khoảng tầm 2 – 7 phút. Xét nghiệm này đo thời điểm từ khi mao mạch gặp phải tổn thương tới khi máu ngừng chảy hoàn toàn. Thường được thực hiện bằng cách chích một vết nhỏ trên da, sau đó theo dõi thời gian máu ngừng chảy. Tuy nhiên, do độ nhạy kém nên hiện ít được sử dụng trong thực hành lâm sàng
- Thời gian máu đông (CT – Clotting Time): Trung bình 4 – 10 phút [1]. Đây là thời gian máu bắt đầu đông lại sau khi tiếp xúc với không khí. Phương pháp này nhận xét nguy cơ trở nên cục máu đông nhờ vào vận động của tiểu cầu và các yếu tố đông máu trong huyết tương. Hiện nay, chỉ số này ít được sử dụng do độ nhạy kém.
- Thời gian prothrombin (PT – Prothrombin Time): thông thường là từ 11 – 13 giây. Xét nghiệm PT giúp cho kiểm tra nguyên nhân đông máu ngoại sinh và được sử dụng để nhận xét công dụng gan.
- Thời gian thrombin (TT – Thrombin Time): Trung bình từ 14 – 16 giây. Dựa trên việc đo thời gian chuyển đổi fibrinogen thành fibrin để trở nên cục máu đông.
- Chỉ số INR (International Normalized Ratio): Người thông thường là từ 0.8 – 1.2. người chứng bệnh dùng thuốc chống đông: 2.0 – 3.0. Chỉ số này giúp cho nhận xét hữu hiệu điều trị bằng thuốc chống đông như warfarin.
Vì sao thời gian đông máu lại quan trọng?
Thời gian đông máu đóng vai trò quan trọng trong việc giữ sức khỏe hệ tuần hoàn và ngăn ngừa các tác hại nguy hiểm. Đây là một chỉ số giúp cho nhận xét nguy cơ cầm máu và kiểm soát tình trạng ra máu hoặc trở nên cục máu đông không thông thường. Theo các chuyên gia y tế, chỉ số này tác động trực tiếp tới nhiều khía cạnh sức khỏe, gồm ngăn ngừa thiếu máu, giảm sút nguy cơ trở nên cục máu đông và giữ gìn an toàn trong tiểu phẫu.
1. Ngăn ngừa thiếu máu
Thời gian đông máu giúp cho cơ thể cầm máu nhanh chóng khi gặp phải tổn thương, hạn chế số lượng máu mất đi. Nếu quá trình này xảy ra quá lâu, cơ thể có thể mất những lượng máu lớn, dẫn tới thiếu máu cấp tính hoặc mạn tính.
- Nếu thời gian đông máu lâu ngày: Cơ thể dễ gặp phải thiếu máu nhiều hơn khi gặp phải thương hoặc trong kỳ kinh nguyệt (với phụ nữ). Điều này có thể gây nên thiếu máu do thiếu sắt, khiến cho người chứng bệnh cảm xuất hiện mệt mỏi, chóng mặt và suy giảm sút thể lực.
- Nếu thời gian đông máu quá nhanh: Có thể dẫn tới trở nên cục máu đông không thông thường, tiến hành tắc nghẽn tuần hoàn máu.
Do đó, cần phải bổ sung đầy đủ sắt và vitamin K để hỗ trợ quá trình đông máu. Kiểm tra sức khỏe định kỳ nếu có dấu hiệu ra máu lâu ngày hoặc bầm tím không rõ nguyên nhân.
2. Ngăn ngừa trở nên cục máu đông
Hệ thống đông máu không những giúp cho cầm máu mà còn giữ sự cân bằng trong tuần hoàn máu. Nếu thời gian đông máu quá ngắn hoặc quá nhanh, cơ thể có thể trở nên cục máu đông không thông thường, gây nên tắc nghẽn mao mạch. Cụ thể:
- Cục máu đông trong động mạch có thể gây nên đột quỵ, nhồi máu cơ tim nếu chặn dòng chảy oxy tới não hoặc tim.
- Cục máu đông trong tĩnh mạch sâu (DVT) có thể di chuyển sang phổi, gây nên thuyên tắc phổi (PE) – một tình trạng nguy hiểm tới tính mạng.
- những chứng bệnh lý như huyết khối tĩnh mạch sâu, rung nhĩ, hoặc hội chứng tăng đông máu di truyền có thể tiến hành tăng nguy cơ trở nên cục máu đông.
Nếu có nguy cơ đông máu cao, nên kiểm tra chỉ số INR, PT, aPTT định kỳ để theo dõi tình trạng đông máu. Uống đủ nước và vận động thường xuyên để ngăn ngừa huyết khối. Nếu đang dùng thuốc chống đông, cần phải tuân thủ liều số lượng và theo dõi theo chỉ định của bác sĩ.
3. tiểu phẫu an toàn
nhận xét đông máu cần phải được kiểm tra trước khi thực hiện bất kỳ ca tiểu phẫu nào. Các xét nghiệm nhận xét đông máu trước tiểu phẫu gồm: PT, APTT, Fibrinogen, số số lượng tiểu cầu. Nếu các chỉ số đông máu giảm sút đông hoặc tăng động, người chứng bệnh có thể gặp nguy cơ ra máu quá mức trong quá trình tiểu phẫu hoặc gặp tác hại sau mổ. Cụ thể:
- Nếu thời gian đông máu lâu ngày, người chứng bệnh có thể gặp không dễ dàng khăn trong việc cầm máu khi thực hiện các ca mổ lớn như tiểu phẫu tim, loại bỏ u bướu hoặc mổ đẻ. Điều này tiến hành tăng nguy cơ thiếu máu nghiêm trọng có thể tác động tới tính mạng và cần phải truyền máu khẩn cấp.
- Nếu thời gian đông máu quá ngắn, người chứng bệnh có thể gặp phải huyết khối hậu phẫu, dẫn tới tắc mao mạch hoặc tác hại tim mạch.
Bác sĩ thường yêu cầu người chứng bệnh thực hiện xét nghiệm đông máu trước tiểu phẫu để nhận xét rủi ro và có phương án điều trị phù hợp. Nếu đang sử dụng thuốc chống đông máu, người chứng bệnh cần phải thông báo cho bác sĩ để điều chỉnh liều số lượng trước tiểu phẫu. Để tăng cường quá trình đông máu khi cần phải thiết, người chứng bệnh cần phải bổ sung thực phẩm giàu vitamin K và protein.
Thời gian đông máu là yếu tố quan trọng giúp cho giữ sức khỏe tuần hoàn và ngăn ngừa các tác hại nguy hiểm. Việc kiểm soát và theo dõi chỉ số này giúp cho: Hạn chế nguy cơ thiếu máu do ra máu lâu ngày, ngăn chặn trở nên cục máu đông gây nên đột quỵ hoặc tắc mạch, giữ gìn tiểu phẫu an toàn, tránh tác hại xuất huyết hoặc huyết khối.

Cách đo lường thời gian đông máu
Theo các chuyên gia y tế, có nhiều phương pháp không tương tự nhau để đo lường thời gian đông cầm máu, mỗi phương pháp phục vụ một mục đích cụ thể trong chẩn đoán và điều trị. Dưới đây là các xét nghiệm thường gặp được sử dụng để đo lường thời gian đông máu, kèm theo ý nghĩa lâm sàng của từng phương pháp:
1. Thời gian máu chảy (BT – Bleeding Time)
Thời gian máu chảy (BT) là xét nghiệm giúp cho nhận xét công dụng tiểu cầu và tính toàn vẹn của thành mao mạch, đây là hai yếu tố quan trọng trong quá trình cầm máu đầu tiên. Với phương pháp này bác sĩ sẽ chích một vết nhỏ trên da (thường ở tay) bằng kim chuyên dụng, sau đó sẽ dùng giấy thấm kiểm tra thời gian máu ngừng chảy hoàn toàn. Thời gian máu chảy thông thường là khoảng tầm 2 – 7 phút.
Trong trường hợp BT lâu ngày sẽ thể hiện cho các chứng bệnh lý về tiểu cầu, chứng bệnh von Willebrand hoặc do tác động của thuốc aspirin. Nếu BT ngắn không thông thường sẽ ít gặp và ít có ý nghĩa lâm sàng.
2. Thời gian đông máu (CT – Clotting Time)
Thời gian đông máu (CT) giúp cho nhận xét nguy cơ tạo cục máu đông khi máu tiếp xúc với không khí. Đây là xét nghiệm đơn giản nhưng mà ít được sử dụng trong lâm sàng tiên tiến với phương pháp đo số lượng cụ thể được thực hiện bằng cách lấy những lượng nhỏ máu vào ống nghiệm không chứa dinh dưỡng chống đông. Từ đó, quan sát thời gian trở nên cục máu đông. Thời gian đông máu thông thường: 4 – 10 phút.
Trường hợp CT lâu ngày có thể do chứng bệnh hemophilia, suy gan hoặc thiếu hụt yếu tố đông máu. Nếu CT ngắn hơn thông thường là thể hiện cho tình trạng tăng đông máu.
3. Thời gian prothrombin (PT – Prothrombin Time)
Thời gian prothrombin (PT) nhận xét nguyên nhân đông máu ngoại sinh và nguy cơ tổng hợp yếu tố đông máu do gan sản xuất. Đây là xét nghiệm quan trọng để theo dõi người chứng bệnh có rối loạn đông máu hoặc đang dùng thuốc chống đông warfarin. Bác sĩ sẽ thực hiện lấy mẫu máu tĩnh mạch, thêm dinh dưỡng kích hoạt đông máu (thromboplastin) và thực hiện đo thời gian trở nên cục máu đông. Thời gian PT thông thường sẽ khoảng tầm 11 – 13 giây.
Trường hợp PT lâu ngày sẽ thường xuất hiện ở những người chứng bệnh mắc chứng bệnh gan, thiếu vitamin K hoặc đang dùng warfarin. Nếu PT ngắn hơn thông thường có thể mối quan hệ tới tình trạng tăng đông máu.
4. Thời gian thromboplastin từng phần hoạt hóa (aPTT – Activated Partial Thromboplastin Time)
Thời gian aPTT nhận xét nguyên nhân đông máu nội sinh và là xét nghiệm quan trọng để theo dõi người chứng bệnh dùng thuốc heparin. Phương pháp đo lường được thực hiện bằng cách lấy mẫu máu tĩnh mạch, thêm dinh dưỡng kích hoạt đông máu nội sinh và đo thời gian tạo cục máu đông. Thời gian aPTT thông thường là 25 – 35 giây.
Trường hợp aPTT lâu ngày thường là sự hiện diện của chứng bệnh hemophilia, hội chứng kháng phospholipid hoặc do dùng thuốc chống đông heparin. Nếu aPTT ngắn hơn thông thường có thể mối quan hệ tới tình trạng tăng đông máu do chứng bệnh lý tăng đông hoặc tăng đông sinh lý để bù trừ với tình trạng ra máu.
5. Chỉ số INR (International Normalized Ratio)
Chỉ số INR được tính dựa trên PT, giúp cho theo dõi hữu hiệu của thuốc chống đông warfarin và chuẩn hóa kết quả giữa các phòng xét nghiệm. Phương pháp đo lường INR được tính toán dựa trên thời gian PT và hệ số chuẩn hóa quốc tế. Chỉ số INR thông thường: 0.8 – 1.2. người chứng bệnh đang điều trị bằng warfarin: INR từ 2.0 – 3.0 [2] hoặc tùy loại chứng bệnh lý mà bác sĩ sẽ chỉnh theo mục tiêu INR xin muốn.
Trường hợp INR > 3.0 người chứng bệnh có nguy cơ ra máu cao, cần phải điều chỉnh liều warfarin. Nếu là INR < 2.0 thì người chứng bệnh nguy cơ trở nên huyết khối cao.
6. Thời gian thrombin (TT – Thrombin Time)
Thời gian thrombin (TT) giúp cho nhận xét quá trình chuyển fibrinogen thành fibrin – bước cuối cùng trong quá trình đông máu. Phương pháp đo lường dựa trên việc lấy mẫu máu, thêm thrombin vào để kích thích quá trình đông máu và đo thời gian trở nên fibrin. Thời gian TT thông thường là khoảng tầm 14 – 16 giây.
Trường hợp thời gian thrombin lâu ngày có thể do thiếu fibrinogen, suy gan hoặc chứng bệnh DIC (rối loạn đông máu nội mạch lan tỏa). Nếu TT ngắn hơn thông thường sẽ ít gặp và thường không có ý nghĩa lâm sàng rõ ràng.
Các yếu tố tác động tới thời gian đông máu
Thời gian đông cầm máu không cố định ở mỗi người mà phụ thuộc vào nhiều yếu tố sinh học và chứng bệnh lý. Theo các chuyên gia y tế, quá trình đông máu là sự phối hợp phức tạp của nhiều thành phần, từ protein đông máu, tiểu cầu tới các khoáng dinh dưỡng như canxi. Dưới đây là những yếu tố chủ yếu tác động tới thời gian đông máu và tác động của chúng tới sức khỏe con người:
1. Yếu tố đông máu
Yếu tố đông máu là các protein có trong huyết tương, có nhiệm vụ kích hoạt và giữ quá trình trở nên cục máu đông. Hiện nay, y học đã từng xác định được 13 yếu tố đông máu, được ký hiệu từ I tới XIII, mỗi yếu tố đóng vai trò quan trọng trong các thời kỳ không tương tự nhau của quá trình đông máu. Vai trò của những yếu tố đông máu:
- Yếu tố I (Fibrinogen): Chuyển thành fibrin để tạo mạng lưới cục máu đông.
- Yếu tố II (Prothrombin): Được kích hoạt thành thrombin để giúp cho trở nên fibrin.
- Yếu tố VII, IX, X: vận động theo nguyên nhân ngoại sinh và nội sinh để tạo thrombin.
- Yếu tố XIII: giúp cho ổn định và gia cố cục máu đông.
tác động tới thời gian đông máu:
- Thiếu hụt yếu tố đông máu: Thời gian đông máu lâu ngày, dễ gặp phải ra máu lâu ngày. Ví dụ chứng bệnh hemophilia: Thiếu hụt yếu tố VIII hoặc IX, XI bẩm sinh khiến cho máu không dễ dàng đông, có thể gây nên xuất huyết nguy hiểm.
- Dư thừa hoặc hoạt hóa quá mức: Tăng nguy cơ trở nên cục máu đông, gây nên đột quỵ hoặc nhồi máu cơ tim.
2. Fibrin
Fibrin là một mạng lưới protein giúp cho giữ chặt tiểu cầu và các tế bào máu trong cục máu đông. Quá trình trở nên fibrin chịu tác động trực tiếp từ thrombin – một enzym quan trọng trong hệ thống đông máu. Vai trò của fibrin là kết nối các tiểu cầu lại với nhau, tạo thành cấu trúc ổn định. Đồng thời hỗ trợ quá trình lành vết thương và ngăn ngừa ra máu tiếp tục. Những tác động tới thời gian đông máu, gồm:
- Fibrin quá ít: Cục máu đông kém bền, dễ tan rã, dẫn tới ra máu lâu ngày.
- Fibrin quá nhiều: Dễ trở nên huyết khối trong lòng mạch, gây nên tắc nghẽn mao mạch.
- chứng bệnh lý mối quan hệ: Hội chứng rối loạn đông máu nội mạch rải rác (DIC) tiến hành mất cân bằng fibrin, gây nên cả ra máu và trở nên cục máu đông không thông thường. Hội chứng này thường gặp trong chứng bệnh lý ung thư, nhiễm trùng…
3. Canxi
Canxi (Ca²⁺) không những là khoáng dinh dưỡng quan trọng cho xương mà còn đóng vai trò thiết yếu trong quá trình đông máu. Các yếu tố đông máu như II, VII, IX và X đều cần phải canxi để vận động hữu hiệu. Vai trò của canxi trong đông máu là tham gia kích hoạt nhiều yếu tố đông máu trong huyết tương. giúp cho các yếu tố đông máu gắn kết với bề mặt tiểu cầu, tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình trở nên cục máu đông.
Những tác động tới thời gian đông máu gồm:
- Thiếu canxi: Đông máu muộn, dễ gặp phải ra máu lâu ngày.
- Dư thừa canxi: Có thể kích thích quá trình đông máu quá mức, tăng nguy cơ tắc nghẽn mao mạch.
- tác động của vitamin K: Vitamin K giúp cho tổng hợp các yếu tố đông máu phụ thuộc vào canxi, do đó thiếu vitamin K cũng có thể lâu ngày thời gian đông máu.
4. chứng bệnh lý
Nhiều chứng bệnh lý có thể tác động tới thời gian đông máu, gây nên nguy cơ ra máu lâu ngày hoặc trở nên huyết khối không thông thường. Những chứng bệnh lý tiến hành lâu ngày thời gian đông máu, cụ thể:
- Hemophilia: Thiếu yếu tố VIII hoặc IX, XI khiến cho quá trình đông máu muộn hơn thông thường.
- chứng bệnh gan: Gan sản xuất tất cả các yếu tố đông máu, nên suy gan có thể gây nên rối loạn đông máu.
- Thiếu vitamin K: Vitamin K cần phải thiết để tổng hợp các yếu tố đông máu II, VII, IX, X.
Ngoài ra, có những chứng bệnh lý có thể tiến hành rút ngắn thời gian đông máu như: Hội chứng kháng phospholipid, gây nên tăng đông máu, tiến hành tăng nguy cơ huyết khối. những loại ung thư có thể kích thích đông máu quá mức, dẫn tới huyết khối. DIC (Rối loạn đông máu nội mạch lan tỏa), đây là một tình trạng nguy hiểm gây nên mất kiểm soát cả quá trình ra máu và đông máu.
5. Thuốc chống đông máu
Nhiều loại thuốc được sử dụng để điều chỉnh thời gian đông máu, giúp cho phòng ngừa hoặc điều trị huyết khối. Tuy nhiên, chúng cũng có thể gây nên tác dụng phụ nếu không được kiểm soát đúng cách. Các loại thuốc chống đông máu thường gặp gồm: Warfarin giúp cho ngăn chặn tác động của vitamin K, lâu ngày thời gian đông cầm máu. Heparin giúp cho ức chế thrombin và các yếu tố đông máu, thường dùng trong điều trị huyết khối cấp tính. Thuốc chống kết tập tiểu cầu (Aspirin, Clopidogrel) tiến hành giảm sút nguy cơ kết dính của tiểu cầu, giúp cho ngăn ngừa đột quỵ.
Thuốc chống đông máu gây nên tác động tới thời gian đông máu, cụ thể:
- Dùng quá liều: Dễ gây nên ra máu không kiểm soát.
- Dùng thiếu liều: Không có tác dụng phòng ngừa huyết khối hữu hiệu.
- Theo dõi INR: người chứng bệnh dùng warfarin cần phải theo dõi INR thường xuyên để giữ gìn hữu hiệu điều trị.
Thời gian đông máu gặp phải tác động bởi nhiều yếu tố sinh học và chứng bệnh lý. Việc giữ sự cân bằng giữa các yếu tố đông máu, fibrin, canxi và thuốc chống đông là rất quan trọng để giữ gìn sức khỏe tim mạch và phòng ngừa tác hại.
Cảnh báo tình trạng rối loạn đông máu
Rối loạn đông máu là một tình trạng nguy hiểm có thể gây nên ra máu lâu ngày hoặc trở nên cục máu đông không thông thường, dẫn tới những hậu quả nghiêm trọng như đột quỵ, nhồi máu cơ tim thường suy đa cơ quan. Theo các chuyên gia y tế, việc phát hiện sớm và điều trị sớm là yếu tố quan trọng giúp cho kiểm soát và phòng ngừa tác hại. Dưới đây là những cảnh báo từ chuyên gia về tình trạng rối loạn đông máu và cách nhận biết dấu hiệu nguy hiểm:
- Bầm tím không rõ nguyên nhân, ra máu cam, ra máu chân răng thường xuyên.
- Kinh nguyệt lâu ngày, ra máu không dễ dàng cầm sau chấn thương hoặc tiểu phẫu.
- đau đớn, sưng chân (dấu hiệu huyết khối tĩnh mạch sâu), không dễ dàng thở, đau đớn ngực (có thể là tắc mạch phổi).
- Đột ngột mất ý thức, tê liệt một bên cơ thể (nguy cơ đột quỵ do cục máu đông).
Nếu gặp các dấu hiệu trên, hãy tới ngay địa điểm y tế để kiểm tra và điều trị sớm, tránh những tác hại nguy hiểm.

Đừng để rối loạn đông máu trở thành mối nguy hiểm tiềm ẩn. Nếu thường xuyên gặp phải bầm tím, ra máu không dễ dàng cầm hoặc có dấu hiệu huyết khối, hãy tới ngay BVĐK Hưng Thịnh. hệ thống chuyên gia đầu ngành và hệ thống xét nghiệm tiên tiến sẽ giúp cho người chứng bệnh phát hiện sớm và điều trị sớm. Để đặt lịch thăm kiểm tra, Quý khách vui lòng liên hệ:
HỆ THỐNG phòng kiểm tra ĐA KHOA Hưng Thịnh
Bên trên là những thông tin giải đáp cho thắc mắc trung bình thời gian đông máu là bao nhiêu phút. Qua đây có thể xuất hiện đây là chỉ số quan trọng giữ an toàn sức khỏe. Hiểu rõ thời gian đông máu trung bình và các yếu tố tác động không những giúp cho bạn theo dõi sức khỏe mà còn phát hiện sớm những nguy cơ tiềm ẩn như rối loạn đông máu, huyết khối hoặc ra máu lâu ngày.