Bé gái Australia đầu tiên chào đời nhờ kỹ thuật trị hiếm muộn từ Việt Nam

Bonnie, em bé Australia đầu tiên chào đời nhờ kỹ thuật IVM được bác sĩ Việt Nam chuyển giao, mở ra hy vọng cho hàng nghìn phụ nữ hiếm muộn tại nước này.

Bonnie nặng 4,1 kg, chào đời tại khu vực y tế Phụ nữ Hoàng gia tuần trước, được ví là “phép màu kỳ diệu”, theo The Sydney Morning Herald – tờ nhật báo hàng đầu, lâu đời nhất Australia.

Leanna, mẹ của bé, trở thành người phụ nữ Australia đầu tiên sinh con nhờ CAPA-IVM (nuôi trứng non trưởng thành trong ống nghiệm). Đây được xem là phương pháp “thay thế thế đột phá” cho IVF (thụ tinh trong ống nghiệm). Trước đó, cô Leanna từng thất bại với IVF.

“Điều tuyệt vời nhất là Bonnie từng ở đây và mang lại hy vọng cho rất nhiều người”, người mẹ nói.





Bé gái Bonnie bên cạnh bố mẹ. Ảnh:

Bé gái Bonnie kết hợp với bố mẹ. Ảnh: The Sydney Morning Herald

Kỹ thuật IVF yêu cầu phụ nữ chích thuốc kích thích cho nang trứng trưởng thành trước khi chúng được lấy ra khỏi buồng trứng đem đi thụ tinh. Trong khi đó, IVM là lấy trứng non nhỏ li ti từ những nang trứng, mang ra ngoài và nuôi trưởng thành chúng trong ống nghiệm, sau đó cho thụ tinh với tinh trùng tạo thành phôi như thường thì.

Với kỹ thuật mới này, người mắc căn bệnh không dùng thuốc kích thích buồng trứng hoặc dùng thuốc rất ít, chỉ cần thiết phải hai ngày để thu hoạch trứng, thay thế vì 2-4 tuần như IVF. Nhờ không tốn tiền tiêm thuốc kích thích buồng trứng, giá thành điều trị suy giảm đáng nhắc.

Giáo sư Rob Gilchrist, ĐH New South Wales, một trong những người “thiết kế” chương trình CAPA-IVM đầu tiên ở Australia, cho rằng em bé đầu tiên ra đời là kết quả sự hợp tác giữa các nhà khoa học ở khu vực y tế Mỹ Đức (TP HCM) và Bỉ.

“IVF giúp cho sinh ra hàng triệu trẻ nhỏ trên khắp thế giới, song nhiều phụ nữ không thể thực hiện được kỹ thuật này”, giáo sư Gilchrist. Những người buồng trứng đa nang, khi tiêm thuốc để thực hiện IVF thì buồng trứng sẽ gặp phải kích thích, tiến triển quá nhiều nang trứng, gây ra không dễ chịu, bụng căng, không dễ thở, thậm chí nguy hiểm tính mạng. Ngoài ra, những người gặp phải một vài loại ung thư, nếu dùng thuốc kích thích buồng trứng sẽ tạo ra nhiều estrogen – loại nội tiết do nang trứng tiến triển, khiến cho ung thư tiến triển nhanh hơn. Do đó nhiều người mắc căn bệnh sau điều trị ung thư không dám nghĩ tới chuyện có con.

IVM mở ra hy vọng thực hiện mẹ cho hàng nghìn phụ nữ Australia mắc hội chứng buồng trứng đa nang, người chiến đấu căn bệnh ung thư. Giáo sư Bill Ledger, Trưởng Khoa Sinh sản, khu vực y tế Phụ nữ Hoàng gia, cho rằng khu vực y tế sẵn sàng chuyển giao tiếp kỹ thuật IVM cho đồng nghiệp nước này với xin muốn thêm nhiều em bé chào đời.

Đề cập tới kết quả chuyển giao kỹ thuật IVM cho đồng nghiệp Australia, bác sĩ Hồ Mạnh Tường, Đơn vị Hỗ trợ sinh sản Mỹ Đức, tự hào nói: “Trước đây bác sĩ Việt Nam qua Australia học kỹ thuật mới để điều trị cho người Việt, nay chúng tôi vui và tự hào vì chuyện ngược lại từng xảy ra”.

Theo bác sĩ Tường, dự án chuyển giao bắt đầu vào năm 2018, các chuyên gia Australia tới khu vực y tế Mỹ Đức học kỹ thuật IVM. Quá trình triển khai gặp phải trở ngại bởi dịch Covid-19 trỗi dậy. Năm 2022, sau dịch, Australia cử 4 người sang Việt Nam học IVM theo quy trình mới nhất và về nước triển khai thành quả, giúp cho một vài phụ nữ mang thai.

Việt Nam lấy IVM trong điều trị hiếm muộn từ năm 2007. Mười năm sau, Việt Nam trở thành nước thực hiện IVM nhiều và thành quả nhất thế giới, chuyển giao kỹ thuật cho nhiều nước như Australia, Mỹ, Pháp, Bỉ, Tây Ban Nha, Singapore…





Giáo sư Rob Gilchrist (ngoài cùng, bên phải) và các bác sĩ, chuyên viên phôi học từ ĐH New South Wales học làm CAPA-IVM tại Bệnh viện Mỹ Đức, năm 2022. Ảnh: Bệnh viện cung cấp

Các chuyên gia từ ĐH New South Wales học kỹ thuật IVM tại khu vực y tế Mỹ Đức, năm 2022. Ảnh: khu vực y tế mang đến

IVM hiện được chỉ định trên nhóm người mắc căn bệnh hội chứng buồng trứng đa nang, người mắc căn bệnh có số nang trên buồng trứng nhiều, người cần thiết phải nhu cầu trữ trứng, bảo tồn nguy cơ sinh sản để điều trị ung thư, người mắc căn bệnh đề kháng với thuốc kích thích buồng trứng, nhóm người mắc căn bệnh trẻ tuổi có nhiều nang trứng…

Nhược điểm của kỹ thuật này là không dễ thực hiện, số phôi tạo được ít. Nếu chuyển phôi thất bại nhiều lần, dùng hết phôi trữ thì phải thực hiện chọc hút lại từ đầu.

Lê Phương


Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.