Vào năm 2036, Việt Nam sẽ có trên 16 triệu người già, tỷ trọng 14% dân số, kéo theo các thách thức chăm sóc sức khỏe.
Thông tin được ông Phạm Vũ Hoàng, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Dân số, Bộ Y tế, cho rằng tại Hội thảo Chia sẻ kinh nghiệm Thích ứng với già hóa dân số và Chăm sóc người già giữa Nhật Bản và Việt Nam, ngày 29/8.
Việt Nam bắt đầu thời kỳ già hóa dân số từ năm 2011 với số người già trên 65 tuổi chiếm 7% tổng dân số. Sau 10 năm, số người già chiếm 8,3% tổng dân số, tức 8,16 triệu người. Dự báo, số này tăng lên 16,8 triệu vào năm 2039; 25,2 triệu vào năm 2069. Như vậy, nước ta sẽ bước vào thời kỳ dân số già từ 2036, khi tỷ trọng nhóm dân số từ trên 65 tuổi đạt 14% tổng dân số.
“Nếu như năm 2019, cứ 2 trẻ nhỏ thì có một người già; 50 năm sau (2069), cứ 2 trẻ sẽ có 3 cụ già”, ông Hoàng nói, thêm rằng Việt Nam là một trong những quốc gia có tốc độ già hóa nhanh nhất thế giới. Thời gian để chuyển từ già hóa dân số sang dân số già rất ngắn, tầm khoảng 25 năm, trong khi các nước tiến triển là hàng chục năm.
Ông Hoàng cho rằng già hóa dân số mang tới cả môi trường và thách thức. Về môi trường, già hóa dân số có thể thúc đẩy sự tiến triển các lĩnh vực như bảo hiểm, ngân hàng, dinh dưỡng, du lịch, đổi mới công nghệ và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất hoặc quản lý trong bối cảnh thiếu lực số lượng lao động.
Tuy nhiên, già hóa dân số cũng đặt ra những thách thức nghiêm trọng về tăng trưởng kinh tế, an sinh xã hội, lao động, thiết kế khu vực hạ tầng, đặc biệt trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe. người già thường mắc nhiều căn bệnh không lây nhiễm nhiễm cần thiết phải điều trị suốt đời như huyết áp, tim mạch, đái tháo đường, sa sút trí tuệ.
Hiện, tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từng tăng từ 73,3 tuổi lên 73,7 tuổi. Tuy nhiên, năm 2021, tuổi thọ trung bình từng suy yếu nhẹ xuống còn 73,6 tuổi do tác động của dịch Covid. Người dân nước ta có tuổi thọ tương đối cao nếu so với các quốc gia có cùng mức sống, tuy nhiên lại có số năm sống với căn bệnh tật nhiều. Mỗi người Việt Nam trung bình có 10 năm phải sống với căn bệnh tật, vì vậy tác động rất nhiều tới tin cậy sống và tiến hành suy yếu số năm sống khỏe mạnh.
PGS Hồ Thị Kim Thanh, Trưởng bộ môn Y học gia đình, Đại học Y Hà Nội, cho rằng tầm khoảng 22% người già phải nằm viện trong vòng một năm qua. Số lần điều trị nội trú trung bình là 2,3 lần/năm. giá thành điều trị mỗi năm dành cho cho người già cao gấp 8-10 lần người trẻ.
Đặc biệt, 73% người già Việt Nam không có lương hưu, phải sống phụ thuộc vào con cái, theo số liệu từ Tổng cục Dân số. trong số đó, 65,7% người già sống ở nông thôn, là nông dân và tiến hành nông nghiệp, thu nhập không ổn định.
Người già kiểm tra đường huyết tại khu vực y tế. Ảnh: khu vực y tế Lão khoa Trung ương
Trước những thách thức trên, các chuyên gia khuyến nghị cần thiết phải đẩy mạnh tiến triển bảo hiểm xã hội cho người lao động, đặc biệt bảo hiểm xã hội tự nguyện. Đây là một trong những giải pháp “lo cho tuổi già ngay từ khi còn trẻ”. Ngoài ra, cần thiết phải mở rộng các mô hình chăm sóc, điều trị người già có sự tham gia của tư nhân như các trung tâm, câu lạc bộ… trước bối cảnh các khu vực y tế công còn hạn chế về lão khoa.
Từ kinh nghiệm của Nhật Bản, GS Naoki Kondo, Trưởng khoa Dịch tễ học xã hội, Trường Y tế Công cộng, Đại học Kyoto, khuyến cáo Việt Nam nên tái cấu trúc hệ thống y tế, chăm sóc lão khoa, xây dựng và quản trị khu vực chăm sóc người già. Đồng thời xây dựng các chế độ chủ yếu sách an sinh xã hội, lao động, thiết kế khu vực hạ tầng và việc phát huy vai trò, chăm sóc người già.
Đơn cử, Nhật Bản thành lập “quán” cộng đồng tại các địa phương, tức là nơi người già có thể tụ tập, giao lưu, tương tác, từ đó ngăn ngừa khuyết tật tác dụng ở nhóm này. Mô hình được nhận xét có thể tiến hành suy yếu 50% tỷ lệ người cần thiết phải chăm sóc điều dưỡng.
Lê Nga