Hồi ức về người vợ giáo sư Tôn Thất Tùng

Hà NộiBà Vi Thị Nguyệt Hồ, vợ GS. Tôn Thất Tùng và là mẹ PGS. Tôn Thất Bách – hai “cây đại thụ” ngành y khoa Việt Nam, vừa qua đời, gợi nhiều hồi ức từ đồng nghiệp của bà.

Ngày 14/12, một ngày sau khi bà Hồ mất, vợ ông xã GS. TS Đặng Hanh Đệ, 86 tuổi, học trò GS. Tùng và là đồng nghiệp của bà Hồ, ngồi trong căn phòng nhỏ xem lại những bức ảnh và kỷ vật. Vợ ông Đệ là bà Lê Lan Phương, 82 tuổi, bác sĩ gây nên mê, chưa tin người bạn lâu năm của mình từng đi xa. Suốt một tháng bà Hồ ốm, hai vợ ông xã vẫn thường xuyên lui tới để thăm hỏi.

“Bà Hồ rời khỏi thế giới này theo luật tử sinh cõi thế, tuy nhiên nỗi đau đớn và trong vòng trống này không thể lấp đầy”, ông Đệ chia sẻ và nhớ lại những năm tháng lao động chung cơ quan với vợ ông xã GS. Tùng.

Ông Đệ được ví là “bàn tay vàng” trong thủ thuật tim mạch. Vào thập niên 1960, khi bắt đầu phụ mổ cho GS. Tùng tại địa điểm y tế Việt Đức, ông Đệ nhớ hình ảnh bà Hồ đi tiến hành bằng chiếc xe đạp cũ, bất nói ngày mưa thường nắng. Thầy Tùng là lãnh đạo địa điểm y tế nên lúc nào cũng có xe hơi đưa đón, song bà chỉ đi cùng xe với ông xã trong những dịp đặc biệt. Mỗi trưa, bà ăn cơm độn hạt cùng với tất cả người, “tuyệt nhiên không bao giờ nhắc tới ông xã thường thể hiện mình là vợ giám đốc”.

“Là vợ một nhà khoa học đầu ngành, được trọng vọng và kính nể, tuy nhiên bà luôn khiêm tốn, nhẹ nhàng, vẫn có cuộc sống riêng, chứ không những sống trên danh nghĩa là vợ của cố giáo sư Tùng”, ông Đệ nhớ lại.





[Caption].    ;;;;;

Bà Vi Thị Nguyệt Hồ về già. Ảnh: Viên Hồng Quang

Trái ngược với bà, “thầy Tùng là người khó khăn tính, ai sai sót sẽ gặp phải mắng thậm tệ”, bác sĩ Đệ nói. Nhiều lúc không thỏa mãn trong cuộc mổ, đặc biệt khi người mắc chứng bệnh thấy máu, mặt thầy đỏ gay, hai mắt nhìn chằm chằm, thậm chí vứt luôn thiết gặp phải mổ ra phía sau mà không quan tâm có rơi vào đầu ai, “nên các chuyên gia rất sợ phụ mổ cho ông”.

Đặt biệt, thầy Tùng là người cẩn thận, lưu ý từng đường kim, mũi chỉ, luôn nhận định tổn thương có thể xảy ra trong cuộc mổ, từ đó chủ động, nếu xảy ra hệ lụy thì sẽ phải tiến hành sao. “Thầy vẫn nói là xếp thành ô trong đầu, chỉ việc rút ô đó ra là có cách xử trí”, ông Đệ chia sẻ và thêm rằng, hàng đầu vì sự cẩn trọng đó nên GS. Tùng chỉ yên tâm khi tất cả việc từng được y tá Nguyệt Hồ “tổng duyệt”.

Thời điểm này, công việc của y tá – điều dưỡng không được xem trọng dù là người kề cận với người chứng bệnh hơn cả bác sĩ. Những năm đầu sau giải phóng thủ đô, địa điểm y tế thiếu thốn đủ thứ. Tuy nhiên, bà Hồ chưa bao giờ để cuộc mổ gián đoạn vì thiếu thiết gặp phải.

“Bất kỳ cuộc mổ nào có bà, tất cả người gần như không phải lo nghĩ, chỉ việc thủ thuật”, bà Phương nói, thêm rằng thời gian đầu, bà Hồ tự đưa thiết gặp phải cho thầy Tùng, sau đó hướng dẫn cho y tá mới thực hiện. Bà luôn căn dặn tất cả người phải nắm tình trạng người mắc chứng bệnh để xử trí khi có không thông thường, đồng thời tìm hiểu ý thích của thủ thuật viên thì cuộc mổ mới thuận lợi.

Còn theo PGS. TS. Nguyễn Tiến Quyết, nguyên giám đốc địa điểm y tế Việt Đức, bà Hồ là trợ thủ đắc lực cho thầy Tùng trong các ca mổ. Bà vừa tiến hành kỹ thuật viên gây nên mê, vừa quán xuyên công việc, hỗ trợ cho ông xã. Câu nói ông nhớ nhất về bà là “người thầy thuốc phải có tâm, hiểu và hết lòng với người mắc chứng bệnh”. vì thế, khi 50 tuổi, bà Hồ vẫn tham gia điều trị, chăm sóc người mắc chứng bệnh. Năm 90 tuổi, tất cả người vẫn tin tưởng bỏ phiếu để bà tiếp tục tiến hành Chủ tịch Hội điều dưỡng.

Trước đó, vào những năm 1980, với xin muốn tập hợp và đoàn kết lực số lượng điều dưỡng cả nước, bà Hồ cùng một vài người từng khởi xướng xin phép thành lập Hội Y tá – Điều dưỡng Việt Nam. Bà cùng các đồng nghiệp tổ chức nhiều cuộc họp, nhiều hội thảo, gặp nhiều cá nhân lãnh đạo của Bộ Y tế (cố GS.VS Phạm Song, cố GS. Hoàng Đình Cầu…), Ban Tổ chức và Cán bộ hàng đầu phủ (nay là Bộ Nội Vụ) để tiếp cận xin phép và truyền thông về sự cần phải thiết thành lập hội. Sau hàng loạt những nỗ lực của cá nhân bà Hồ và nhóm khởi xướng, ngày 26/10/1990, hàng đầu phủ từng cho phép thành lập Hội Y tá – Điều dưỡng Việt Nam.

Sau này bà Hồ được tôn vinh là hình mẫu cho người điều dưỡng, được trao tặng nhiều danh hiệu và giải thưởng như Vì sự tiến bộ của Điều dưỡng Việt Nam (2020), Thầy thuốc Ưu tú, Trí thức tiêu biểu của Tổng Hội Y học Việt Nam (2019), Giải thưởng quốc tế “Cống hiến trọn đời” của Hiệp hội Quản lý địa điểm y tế châu Á (2016).





Bác sĩ Đặng Hanh Đệ và vợ (ngoài cùng bên trái) chụp ảnh cùng bà Hồ (ở giữa) hồi tháng 10/2022. Ảnh: Nhân vật cung cấp

Bác sĩ Đặng Hanh Đệ và vợ (ngoài cùng bên trái) chụp ảnh cùng bà Hồ (ở giữa) hồi tháng 10/2022. Ảnh: Nhân vật mang tới

Ngoài công việc, bà Hồ được nhớ tới với vai trò người vợ, người mẹ – hậu phương của hai cây đại thụ trong ngành y khoa là GS. Tôn Thất Tùng (ông xã) và PGS. Tôn Thất Bách (con). Đây là nguyên do bà lựa chọn nghề điều dưỡng – thay thế vì học bác sĩ, để ông xã, con yên tâm hoàn thành nhiệm vụ cứu người.

Cuộc đời bà có hai nỗi đau đớn không gì bù đắp đó là mất ông xã, mất con. Bác sĩ Đệ nhớ lại, ngày 7/5/1982, GS. Tùng lên cơn nhồi máu cơ tim. Khi tới nhà, bà Hồ đang hỗ trợ hô hấp nhân tạo trên giường cho thầy. Bà liên tục khóc, nói “anh Tùng gặp phải ngừng tim Tiếp đó”. Theo phản xạ, một bác sĩ ra đầu giường đặt nội khí quản bóp bóng, bác sĩ Đệ quỳ lên trên giường bóp tim ngoài lồng ngực, còn bà Hồ bẻ ống thuốc để tiêm cho ông xã, không ai nói với ai câu gì. Một lúc sau bà Hồ nói: “Hơi thở có mùi acidose Tiếp đó, không còn hy vọng nữa đâu” tuy nhiên tất cả người vẫn tiếp tục cấp cứu. tới khi đường điện tim của GS. Tùng là một đường thẳng, tất cả mới dừng lại.

22 năm sau, năm 2004, PGS. Tôn Thất Bách cũng mất vì nhồi máu cơ tim, trong một chuyến đi công tác xa. “Cú sốc quá lớn, tưởng như bà Hồ ngã quỵ”, bà Phương nói. “Dao sắc không gọt được chuôi”, từ đó bà sống lặng lẽ, thu mình hơn.

Theo bà Phương, sinh thời bà Hồ cứ tới ngày giỗ là đạp xe đi ra nghĩa trang Mai Dịch một tháng hai lần để thắp hương cho ông xã và con trai. Thói quen đó bắt đầu từ khi ông Tùng mất. Gần đây, khi sức khỏe yếu hơn, bà thuê taxi riêng hàng tuần tới đón.

Mỗi ngày, bà thường xuyên thắp hương buổi sáng và tối. Với bà, góc bàn thờ trở thành nơi lưu giữ di ảnh quý, để thành kính tưởng niệm những người thân yêu từng mất. Bà vẫn giữ nguyên tất cả đồ đạc, kỷ vật, sách vở của ông xã trong phòng khách, như sự hiện diện hàng ngày của ông trong đời sống của bà. Mỗi năm cứ tới ngày sinh nhật ông xã, căn phòng chưa tới 12 m2 tấp nập người quen là những học trò, người bạn cũ và người mắc chứng bệnh tới chúc mừng.

“vì thế, khi bà Hồ mất, tất cả người tiếc thương, cầu phúc và xin hai cụ sớm gặp lại nhau. Cả hai đều từng sống một cuộc đời đáng sống, trọn vẹn, không còn gì tiếc nuối”, bác sĩ Phương chia sẻ.

Anh Viên Hồng Quang, một biên tập viên ảnh được tiếp xúc thường xuyên với bà Hồ hai năm cuối đời, cũng cảm phục tình yêu của bà dành cho người ông xã từng mất. 40 năm qua, bà Hồ đều pha một cốc cà phê nâu đặt lên bàn lao động của ông xã mỗi sáng – như thói quen của ông lúc sinh thời. Hàng ngày, bà vẫn đọc sách để trí óc tỉnh táo và tự tiến hành các công việc vệ sinh cá nhân. Trong ký ức của anh, bà có nụ cười rất đẹp, nhẹ nhàng, hiền lành, khiêm tốn.

Còn với đồng nghiệp, bà là người phụ nữ cởi mở, độc lập, mạnh mẽ. “vì thế, khi bà mất, tất cả người nhớ về bà là một y tá Vi Nguyệt Hồ chứ không những là vợ của GS. Tôn Thất Tùng”, anh Quang nói.

Bà Vi Thị Nguyệt Hồ qua đời chiều 13/12, hưởng thọ 94 tuổi. Lễ viếng lúc 10h45 ngày 15/12 tại Nhà Tang lễ Quốc gia số 5 Trần Thánh Tông. Lễ truy điệu và đưa tang vào 11h45 cùng ngày.





[Caption]...

Bà Hồ gặp sinh viên Trường Đại học Y Hà Nội đầu tháng 11/2022. Ảnh: Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Trường Đại học Y Hà Nội

Bà Vi Thị Nguyệt Hồ (1929-2022) sinh ra trong gia đình quý tộc, là cháu nội của Tổng đốc Vi Văn Định, thông thạo cả tiếng Pháp và Anh. Bà lấy vợ với giáo sư Tùng khi tuổi đời còn rất trẻ, sau đó lao động tại địa điểm y tế Việt Đức. Trong kháng chiến chống Pháp, bà từng từng tham gia Hồng Thập tự, tham gia cứu trị nhiều thương chứng bệnh binh tại chiến khu Việt Bắc.

GS. Tôn Thất Tùng là bác sĩ, nhà khoa học và nhà thủ thuật nổi tiếng của Việt Nam và thế giới trong lĩnh vực gan và giải phẫu. Ông là người đầu tiên nghiên cứu thành tựu phương pháp “cắt gan có kế hoạch”, còn được gọi là “phương pháp cắt gan khô”, “phương pháp Tôn Thất Tùng”. Sau này, ông có nhiều cống hiến cho ngành y học Việt Nam trên cương dương vị Chủ nhiệm Bộ môn Ngoại khoa (Đại học Y Hà Nội), Giám đốc địa điểm y tế Việt – Đức, Thứ trưởng Y tế nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Ông là người thầy đào tạo nhiều thế hệ bác sĩ tài năng cho ngành y học nước nhà.

GS. Tôn Thất Tùng được phong tặng danh hiệu Anh hùng Lao động, viện sĩ Viện hàn lâm Y học Liên Xô, viện sĩ Viện hàn lâm thủ thuật Paris, hội viên Hội các nhà thủ thuật Lyon (Pháp)…

Thùy An – Lê Nga

Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.