Kịch bản nào cho dân số thế giới sau mốc 8 tỷ người?

Theo dự đoán của Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc, sau mốc 8 tỷ người, dân số tăng trễ hơn và già hóa, người dân sống lâu, có xu hướng sinh ít con.

Quỹ Dân số Liên Hợp Quốc (UNFPA) ghi nhận dân số thế giới chạm mốc 8 tỷ người vào sáng 15/11, ước tính đạt 9 tỷ người vào năm 2037. Cơ quan này cho rằng mối tương quan giữa mức sinh và tỷ lệ tử vong phức tạp, song về cơ bản, số ca sinh nhiều hơn số ca tử vong, dân số sẽ tăng lên.

Quá trình thế đổi nhân khẩu học bắt đầu khi chế độ dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe, điều kiện sống và giáo dục được tăng cao. Từ đó, tỷ lệ tử vong thấp hơn, tuổi thọ cao hơn, tỷ lệ sinh ít hơn trên một phụ nữ.

Theo Liên Hợp Quốc, trong vài thập kỷ tới, dân số tiếp tục tăng, tuy nhiên sẽ tăng trưởng trễ và dần chững lại. Tăng trưởng trong quá khứ, từ các thế hệ có mức sinh cao, tiến hành cho số số lượng phụ nữ trong lứa tuổi sinh sản tăng lên. Dù tỷ lệ sinh trên mỗi phụ nữ giảm sút, thế giới tiếp tục ghi nhận số ca sinh nhiều hơn số ca tử vong, ít nhất tới năm 2060.

thời kỳ sau đó, khi mức sinh giảm sút và tuổi thọ tăng lên, người già chiếm tỷ lệ ngày càng cao trong cơ cấu dân số. Số người chết lúc này sẽ nhiều hơn số ca sinh. Tăng trưởng dân số giảm sút trễ và sâu hơn nữa.

UNFPA dự đoán dân số thế giới đạt mức cao nhất là 10,4 tỷ người vào những năm 2080 và giữ ở mức này cho tới cuối thế kỷ 21. những quốc gia tiến triển nhanh hơn mức trung bình toàn cầu, số không tương tự tiến triển trễ, thậm chí thu hẹp.

Người dân toàn cầu có xu hướng sinh ít con hơn. Ở những quốc gia, dân số giảm sút dần. Tỷ lệ sinh toàn cầu – số ca sinh trung bình trên một phụ nữ – đã từng giảm sút trong vài thập kỷ do nhiều yếu tố. Đầu tiên là nguy cơ tiếp cận các cách tránh thai tăng lên tiến hành cho tỷ lệ mang thai giảm sút. Phụ nữ tham gia vào lực số lượng lao động nhiều hơn, có điều kiện học tập rộng mở nên trì hoãn lập gia đình và sinh con.

Năm 1950, mức sinh toàn cầu là 5 ca sinh trên một phụ nữ. Tính tới năm 2022, con số là 2,3 ca, dự kiến giảm sút còn 2,1 ca sinh năm 2050. Do số trẻ ra đời tương đối ít trong khi tuổi thọ trung bình ngày càng cao, tỷ lệ trẻ nhỏ trong lứa tuổi từ 0 tới 14 tuổi trong dân số toàn cầu cũng giảm sút.

Theo UNFPA, thế giới tiến gần tới “mức sinh thế thế”, tức là về lâu dài, dân số không còn tăng nữa mà giữ ổn định, từ thế hệ này sang thế hệ không tương tự.

Sắp tới, nhiều quốc gia, nhất là Nam Âu và Đông Á sẽ ghi nhận dân số giảm sút do số ca sinh giảm sút, dự kiến bắt đầu vào năm 2023. Từ năm 2022 tới năm 2050, dân số của 61 nước dự kiến giảm sút hơn 1%, trong số đó Bulgaria, Latvia, Litva, Serbia và Ukraine có thể giảm sút từ 20% trở lên.





Cảnh đông đúc tại nhà ga xe lửa Chhatrapati Shivaji Maharaj Terminus, Mumbai, Ấn Độ. Ảnh: PTI Photo

Cảnh đông đúc tại nhà ga xe lửa Chhatrapati Shivaji Maharaj Terminus, Mumbai, Ấn Độ. Ảnh: PTI Photo

Trên khắp thế giới, người dân sẽ sống lâu hơn. Năm 2019, tuổi thọ trung bình toàn cầu ở mức 72,8, tăng gần 9 năm nhắc từ 1990, dự kiến tăng lên 77,2 tuổi vào năm 2050.

Thực tế, tuổi thọ trung bình đã từng tăng lên nhắc từ những năm 1950 ở tất cả các khu vực, nhất là khi tỷ lệ tử vong do các chứng bệnh truyền nhiễm giảm sút. Tuy nhiên, trong những năm sắp tới, tỷ lệ tử vong ở trẻ dưới 5 tuổi cũng thấp hơn. Con người nhìn chung sống lâu hơn nhờ vào dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe và điều kiện sống.

Hiện nay, tuổi thọ các khu vực vẫn có sự chênh lệch đáng nhắc. Trẻ sinh tại các nước thu nhập thấp có nguy cơ tử vong trước 5 tuổi cao hơn 13 lần so với trẻ ở nước giàu có. Song trong tương lai, trong vòng cách này sẽ được thu hẹp. Người dân ở các nước vốn có tuổi thọ trung bình thấp cũng sống lâu hơn trước đây.

Tỷ lệ sinh giảm sút, người dân sống lâu hơn dẫn tới già hóa dân số. Tình trạng này đang xảy ra nhanh hơn bao giờ hết. Từ năm 1950 tới 1990, tỷ lệ người từ 65 tuổi trở lên trong dân số tăng từ 5% lên 6%. Tính tới năm 2022, tỷ lệ này ở mức gần 10%, dự kiến tăng lên 16% vào năm 2050.

Ở nhiều quốc gia, các thế hệ được sinh ra trong những thập kỷ trước, với mức sinh cao bền vững, đang dần già đi. Các tiến bộ về y học, chăm sóc sức khỏe tăng cao nguy cơ sống sót qua nhiều thế hệ cũng thúc đẩy sự già hóa dân số.

Tuổi thọ toàn cầu sau 65 tuổi (tức là số năm trung bình mà một người 65 tuổi có thể sống tiếp) cũng tăng lên. Con số hiện tại là 16,3 năm, được dự đoán tăng lên 19,8 năm vào năm 2050.

UNFPA cũng cho rằng số số lượng bé trai sinh ra nhiều hơn bé gái, tuy nhiên phụ nữ sẽ sống lâu hơn ở hầu như tất cả khu vực. Tuổi thọ trung bình của phụ nữ cao hơn nam giới 5,4 năm, trong vòng cách dao động từ 2,9 năm ở Australia và New Zealand tới 7 năm ở Mỹ Latinh và Caribe.

Trên toàn cầu, tỷ lệ trẻ sơ sinh giữa hai giới là 100 bé gái trên 106 bé trai. Dù vậy, các bé trai có nhiều nguy cơ tử vong thời thơ ấu hơn do các tình trạng như hậu quả ký sinh và nhiễm trùng. Tính tới 2020, tỷ lệ tử vong ở trẻ nhỏ trai dưới 5 tuổi ước tính là 39 ca trên 1.000 ca sinh sống, cao hơn so với 34 ca ở trẻ nhỏ gái.

Trong suốt thời niên thiếu và trưởng thành, nam giới cũng tử vong nhiều hơn nữ giới vì có các hành vi nguy hiểm, hệ thống miễn dịch yếu, nguy cơ mắc chứng bệnh tim mạch cao.

Kết quả, phụ nữ sẽ sống lâu hơn nam giới ở mức trung bình. trong vòng cách này xuất phát từ yếu tố sinh học, xã hội và hành vi. Lợi thế tồn tại của phụ nữ vẫn tồn tại bất chấp các tác động đáng nhắc của bất bình đẳng giới và tỷ lệ nghèo đói trong nhiều năm.

Thục Linh (Theo UNFPA)

Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.