Phân nhóm và cơ chế vận động

Có nhiều loại thuốc điều trị ung thư. Việc lựa chọn lựa thuốc điều trị sẽ không tương tự nhau ở từng người mắc chứng bệnh. 

Thuốc điều trị ung thư là sao?

Thuốc điều trị ung thư là thuốc được chấp thuận phê duyệt bởi các tổ chức quốc tế và trong nước; được dùng để điều trị chứng bệnh ung thư, cũng như ngăn chặn chứng bệnh ung thư tái phát. với mục đích điều trị, có thể là điều trị triệt để (hết hẳn chứng bệnh) trong các thời kỳ sớm; hoặc điều trị suy yếu nhẹ triệu chứng trong thời kỳ chứng bệnh tiến triển di căn tới các cơ quan không tương tự trong cơ thể.

Có rất nhiều loại thuốc điều trị ung thư được phân nhóm theo cơ chế vận động và mục đích điều trị.

các loại thuốc điều trị ung thư

Các loại thuốc điều trị ung thư

Các nhóm thuốc điều trị ung thư và cơ chế vận động của từng nhóm 

Các loại thuốc hóa trị (Chemotherapy)

Là nhóm thuốc gây ra độc tế bào thực hiện hỏng DNA và giết chết tế bào ung thư cũng như tế bào lành (chủ yếu vì vậy, nên các thuốc hóa trị thường gây ra ra các tác dụng phụ do mối liên quan tới tổn thương tế bào lành như rụng tóc, nôn ói, thiếu các loại tế bào máu…).

Thuốc hóa trị có thể được sử dụng đơn trị (chỉ dùng 1 loại thuốc), hoặc đa hóa trị (phối hợp nhiều loại thuốc), hoặc phối hợp với các phương pháp điều trị không tương tự. Các loại thuốc hóa trị không tương tự nhau về thành phần hóa học, cơ chế vận động, liều dùng, cách dùng cũng như không tương tự nhau về hữu hiệu điều trị và các tác dụng phụ.

Cùng một loại thuốc điều trị ung thư song tùy vào việc sử dụng (đơn trị, hoặc đa hóa trị, hoặc phối hợp với các phương pháp điều trị không tương tự) mà cách dùng thuốc sẽ không tương tự nhau. 

Thuốc hóa trị có thể được phân nhóm theo cách thức vận động, cấu trúc hóa học và mối quan hệ với các loại thuốc không tương tự. một vài loại thuốc vận động theo nhiều cách và có thể thuộc nhiều nhóm. Có các nhóm thuốc hóa trị sau: (1)

Nhóm tác nhân alkyl hóa

Các tác nhân Alkyl hóa ngăn không cho tế bào tạo bản sao của chủ yếu nó, bằng cách thực hiện hỏng DNA của tế bào. Nhóm thuốc này được sử dụng để điều trị nhiều chứng bệnh ung thư không tương tự nhau như ung thư phổi, vú và buồng trứng, chứng bệnh bạch cầu, chứng bệnh lý ung thư hạch, đa u tủy và sarcoma.

Nhóm Nitrosoureas

Nitrosoureas cũng là nhóm thuộc các hoạt chất Alkyl hóa, song có tính hoạt chất đặc biệt hơn là có thể hòa tan trong hoạt chất béo nên có thể xuyên qua hàng rào tĩnh mạch – não để đi vào não; trong khi các tác nhân Alkyl hóa không tương tự được liệt kê ở trên không thể thực hiện được điều này. Vì vậy nhóm Nitrosoureas thường được dùng để điều trị một vài loại u não.

Nhóm hoạt chất chống chuyển hóa

Các hoạt chất chống chuyển hóa gây ra trở ngại tổng hợp ADN và RNA, vì vậy ADN và RNA không thể tạo ra các bản sao của chủ yếu nó và tế bào không thể sinh sản. Nhóm thuốc này thường được sử dụng để điều trị các chứng bệnh bạch cầu, ung thư vú, buồng trứng và đường ruột, cũng như các loại ung thư không tương tự.

Nhóm thuốc thuốc chống u bướu

Những loại thuốc này không tương tự với nhóm thuốc thuốc sử dụng để điều trị nhiễm trùng. 

Thuốc ngăn cản việc phân chia tế bào bằng cách thực hiện xáo trộn việc tổng hợp ADN và RNA bên trong tế bào ung thư, thực hiện cho tế bào ung thư không thể nhân lên và tiến triển.

  • Thuốc thuốc Anthracyclines: được sử dụng điều trị rộng rãi cho nhiều loại chứng bệnh ung thư, gồm các thuốc như Daunorubicin, Doxorubicin, Doxorubicin liposomal, Epirubicin, Idarubicin, Valrubicin…
  • Thuốc thuốc không phải là Anthracycline: cùng với Anthracyclines còn có các thuốc thuốc chống u bướu không tương tự không thuộc Anthracyclines như  Bleomycin, Dactinomycin, Mitomycin-C, Mitoxantrone (cũng vận động như một hoạt chất ức chế topoisomerase II).

Nhóm thuốc ức chế Topoisomerase

Topoisomerase là một loại enzyme giúp cho tách các sợi ADN trước khi có thể thực hiện quá trình sao chép (enzyme = một loại protein giúp cho kích hoạt các phản ứng hóa học trong tế bào).

Những loại thuốc này có nguồn gốc từ Ancaloid thực vật, giúp cho ức chế Topoisomerase, thực hiện cho ADN không thể tách được, từ đó không thể sao chép; đồng nghĩa với việc tế bào ung thư không thể phân chia và tăng sinh. Nhóm thuốc này có thể được sử dụng điều trị một vài chứng bệnh bạch cầu, ung thư phổi, buồng trứng, đường tiêu hóa, đại trực tràng và tuyến tụy.

Có 2 nhóm hoạt chất ức chế Topoisomerase: ức chế Topoisomerase I và ức chế Topoisomerase II.

  • Các hoạt chất ức chế Topoisomerase I (còn được gọi là Camptothecins) gồm các thuốc như Irinotecan, Irinotecan liposomal, Topotecan…
  • Các hoạt chất ức chế Topoisomerase II (còn được gọi là Epipodophyllotoxin) gồm các thuốc như Etoposide (VP-16), Mitoxantrone (cũng vận động như một hoạt chất thuốc chống u bướu), Teniposide…

Nhóm thuốc ức chế phân bào

Nhóm thuốc ức chế phân bào thường có nguồn gốc từ Ancaloid thực vật. Nhóm thuốc này ngăn tế bào phân chia để trở thành tế bào mới, song có thể thực hiện hỏng tế bào trong tất cả các thời kỳ bằng cách ngăn các enzyme tạo ra các hoạt chất cần phải thiết cho quá trình sinh sản của tế bào.

Nhóm thuốc ức chế phân bào có thể được sử dụng để điều trị ung thư ung thư vú, phổi, u tủy, u lympho và chứng bệnh bạch cầu. 

Corticosteroid

Corticosteroid thường được gọi là steroid, là hormone tự nhiên. Các loại thuốc tương tự như hormone thường thường được dùng trong điều trị nhiều loại ung thư, cũng như các chứng bệnh không tương tự. Khi những loại thuốc này được sử dụng như một phần của điều trị ung thư, chúng được xem là thuốc hóa trị. 

Các thuốc thuộc nhóm Corticosteroid gồm Prednisone, Methylprednisolone, Dexamethasone…

Corticosteroid còn có thể được sử dụng để ngăn ngừa buồn nôn và nôn do hóa trị. Ngoài ra, Corticosteroid có thể được dùng trước khi điều trị hóa trị để giúp cho ngăn ngừa các phản ứng dị ứng nghiêm trọng.

Các loại thuốc hóa trị không tương tự

Có một vài thuốc hóa trị vận động không theo các nhóm trên như Acid all-trans-retinoic, Asen trioxide, Asparaginase, Eribulin, Hydroxyurea, Ixabepilone, Mitotane, Omacetaxine, Pegaspargase, Procarbazine, Romidepsin, Vorinostat…

thuốc trị ung thư

Các loại thuốc hóa trị điều trị nhiều loại ung thư không tương tự nhau.

Thuốc điều trị ung thư nhắm trúng đích (Targeted therapy)

Thuốc điều trị ung thư nhắm trúng đích sẽ thâm nhập trực tiếp vào các điểm không tương tự biệt của từng loại tế bào ung thư, từ đó giúp cho nhanh chóng tiêu diệt các tế bào ung thư và ít thực hiện tổn hại tới các tế bào lành. 

Các tác dụng của thuốc điều trị ung thư nhắm trúng đích là:

  • Tìm kiếm các tế bào ung thư và tiêu diệt chúng.
  • Ngăn chặn các tế bào ung thư phân chia và tiến triển.
  • Khuyến khích hệ thống miễn dịch thâm nhập các tế bào ung thư.
  • Ngăn chặn các tĩnh mạch nuôi tế bào ung thư.
  • giúp cho thực hiện các phương pháp điều trị không tương tự như hóa trị liệu trực tiếp tới các tế bào ung thư.

Có nhiều loại thuốc điều trị ung thư nhắm trúng đích không tương tự nhau, được phân nhóm tùy theo cơ chế vận động. một vài loại thuốc điều trị ung thư nhắm trúng đích mục tiêu cũng có thể được gọi là liệu pháp sinh học.

Các nhóm thuốc điều trị ung thư nhắm trúng đích gồm:

Kháng thể đơn dòng (MAB = Monoclonal AntiBody)

Các kháng thể trong máu giúp cho ngăn chặn nhiễm trùng. Các liệu pháp MAB bắt chước các kháng thể tự nhiên song được tạo ra trong phòng thí nghiệm. Đơn dòng tức là tất cả một loại. Vì vậy, mỗi liệu pháp MAB là rất nhiều bản sao của một loại kháng thể. (3)

Nhiều MAB không tương tự nhau có sẵn để điều trị ung thư và chúng vận động theo nhiều cách không tương tự nhau.

Tất cả các thuốc kháng thể đơn dòng đều được gọi tên với công thức tên thuốc + mab sau cùng. Ví dụ: trastuzumab (Herceptin), pertuzumab (Perjeta), bevacizumab (Avastin), rituximab (Mabthera), Docstarlimab.

Thuốc ngăn chặn sự tiến triển ung thư 

Thuốc ngăn chặn sự tiến triển ung thư là một loại thuốc nhắm mục tiêu ngăn chặn các yếu tố tăng trưởng, kích hoạt tế bào ung thư phân chia và tiến triển. Các nhà khoa học đang xem xét các cách không tương tự nhau để thực hiện điều này như:

  • suy yếu tình trạng của các yếu tố tăng trưởng trong cơ thể.
  • Ngăn chặn thụ thể yếu tố tăng trưởng trên tế bào ung thư.
  • Chặn các tín hiệu bên trong tế bào khởi động khi yếu tố tăng trưởng kích hoạt thụ thể.
  • toàn bộ các phương pháp điều trị này vận động bằng cách ngăn chặn các quá trình truyền tín hiệu mà tế bào ung thư sử dụng để phân chia.

hoạt chất ngăn chặn ung thư tiến triển có nhiều loại không tương tự nhau và có thể được phân nhóm theo loại hóa hoạt chất mà chúng ngăn chặn. Ví dụ như thuốc ức chế tyrosine kinase, thuốc ức chế proteasome, hoạt chất ức chế mTOR, thuốc ức chế PI3K, hoạt chất ức chế histone deacetylase, các hoạt chất chặn đường dẫn truyền của con nhím, hoạt chất ức chế BRAF và MEK…

Thuốc ngăn chặn sự tiến triển của tĩnh mạch ung thư

Thuốc chống tạo mạch là phương pháp điều trị bằng cách ngăn chặn các tĩnh mạch trong u bướu tiến triển. Nếu thuốc có thể ngăn chặn sự tiến triển của các tĩnh mạch trong u bướu, nó có thể thực hiện muộn sự tiến triển của ung thư hoặc đôi lúc thu nhỏ u bướu.

Có nhiều loại thuốc không tương tự nhau ngăn chặn sự tiến triển của tĩnh mạch:

  • Thuốc ngăn chặn yếu tố tăng trưởng tĩnh mạch:

Là thuốc ngăn chặn yếu tố tăng trưởng nội mô tĩnh mạch (VEGF) gắn vào các thụ thể trên các tế bào lót tĩnh mạch để ngăn các tĩnh mạch tiến triển.

Ví dụ như thuốc ngăn chặn VEGF là bevacizumab (Avastin). Bevacizumab cũng là một kháng thể đơn dòng dùng để điều trị một vài loại ung thư không tương tự nhau. Các ví dụ không tương tự gồm aflibercept, ramucirumab.

  • Thuốc ngăn chặn tín hiệu trong tế bào:

Là thuốc ngăn các thụ thể VEGF gửi tín hiệu tăng trưởng vào các tế bào tĩnh mạch. Những phương pháp điều trị này còn được gọi là thuốc ngăn chặn sự tiến triển ung thư hoặc hoạt chất ức chế tyrosine kinase (TKIs).

Ví dụ về TKI ngăn chặn tín hiệu bên trong tế bào tĩnh mạch gồm sunitinib, sorafenib Axitinib, regorafenib, cabozantinib.

  • Thuốc tác động tới tín hiệu giữa các tế bào:

Là thuốc vận động trên các hoạt chất hóa học mà tế bào sử dụng để dấu hiệu cảnh báo cho nhau tiến triển, nhằm ngăn chặn sự trở thành của các tĩnh mạch.

Thuốc vận động theo cách này gồm thalidomide và lenalidomide (Revlimid). Chúng được sử dụng để điều trị chứng bệnh đa u tủy.

hoạt chất ức chế PARP

Là một phương pháp điều trị ung thư bằng cách sử dụng các hoạt chất ức chế PARP để ngăn PARP thực hiện công việc sửa điều trị các tế bào ung thư và tế bào đó sẽ chết.

Các nhà nghiên cứu lần đầu tiên xem xét các loại thuốc này trong các chứng bệnh ung thư mối liên quan tới sự thế đổi (hoặc lỗi) trong gen được gọi là BRCA.

Thông thường, gen BRCA1 và BRCA2 đóng một phần trong quá trình sửa điều trị tế bào của cơ thể. Tế bào ít có thể tự sửa điều trị nếu có lỗi ở một hoặc cả hai gen này. Những người có gen BRCA mắc phải lỗi sẽ tăng nguy cơ mắc một vài chứng bệnh ung thư như ung thư vú, ung thư buồng trứng, ung thư tuyến tiền liệt.

Các tế bào ung thư có lỗi gen BRCA từng có một hệ thống sửa điều trị kém. Vì vậy, ngăn chặn PARP bằng thuốc ức chế PARP tức là thực hiện cho các tế bào không có thể tự phục hồi và chết đi.

Thuốc PARP được dùng để điều trị các loại ung thư gồm ung thư buồng trứng, ung thư ống dẫn trứng, ung thư phúc mạc. Ngoài ra, nó cũng được thử nghiệm trong các loại ung thư không tương tự như ung thư phổi, ung thư tuyến tụy, ung thư đầu cổ, một loại u bướu não được gọi là u nguyên bào thần kinh đệm đa loại, ung thư tuyến tiền liệt, ung thư dạ dày và thực quản, tử cung và ung thư cổ tử cung, ung thư thận và bọng đái.

Có nhiều loại hoạt chất ức chế PARP không tương tự nhau gồm olaparib (Lynparza), rucaparib (Rubraca), niraparib (Zejula). 

Các loại thuốc điều trị nội tiết

Hormone là các protein hoặc hoạt chất do cơ thể tạo ra để giúp cho kiểm soát cách thức vận động của một vài loại tế bào. Ví dụ, một vài cơ quan của cơ thể dựa vào hormone sinh dục như estrogen, testosterone và progesterone để vận động thường thì. Có nhiều loại hormone không tương tự trong cơ thể, ví dụ như hormone tuyến giáp, cortisol, adrenaline và insulin. Các loại hormone không tương tự nhau được tạo ra bởi các cơ quan hoặc tuyến không tương tự nhau.

một vài chứng bệnh ung thư phụ thuộc vào kích thích tố để tiến triển. Do đó, các phương pháp điều trị ngăn chặn hoặc thế đổi nội tiết tố đôi lúc có thể giúp cho thực hiện muộn hoặc ngăn chặn sự tiến triển của các loại ung thư này. Điều trị ung thư bằng nội tiết tố được gọi là liệu pháp hormone, liệu pháp nội tiết tố, hoặc liệu pháp nội tiết. Liệu pháp hormone chủ yếu được sử dụng để điều trị một vài loại ung thư vú và ung thư tuyến tiền liệt phụ thuộc vào hormone sinh dục để tiến triển. một vài chứng bệnh ung thư không tương tự cũng có thể được điều trị bằng liệu pháp hormone.

Liệu pháp hormone được xem là một phương pháp điều trị toàn thân vì các hormone được nhắm tới sẽ tuần hoàn khắp cơ thể. Các loại thuốc được sử dụng trong liệu pháp hormone sẽ đi khắp cơ thể để nhắm mục tiêu và tìm ra các hormone. Điều này thực hiện cho nó không tương tự với các phương pháp điều trị chỉ tác động tới một cơ quan nhất định của cơ thể, tương tự như toàn bộ các loại thủ thuật và xạ trị. 

Cách thức vận động của liệu pháp hormone:

Các loại liệu pháp hormone không tương tự nhau vận động theo những cách không tương tự nhau:

  • Ngăn cơ thể tạo ra hormone.
  • Chặn hormone gắn vào các tế bào ung thư.
  • thế đổi nội tiết tố để nó không vận động như thường thì.

Liệu pháp hormone có thể được sử dụng để:

  • Điều trị một loại ung thư nhất định bằng cách ngăn chặn hoặc thực hiện muộn sự tiến triển của các tế bào ung thư.
  • suy yếu các triệu chứng mối liên quan tới một loại ung thư nhất định.

một vài ví dụ và các loại ung thư mà các liệu pháp nội tiết có thể được sử dụng để điều trị.

  • Ung thư vú: hoạt chất ức chế Aromatase (AI) như anastrozole, exemestane và letrozole; các hoạt chất điều biến thụ thể estrogen có chọn lựa lọc (SERMs) như tamoxifen và raloxifene; thuốc đối kháng thụ thể estrogen như fulvestrant và toremifene; hoạt chất chủ vận hormone giải phóng hormone luteinizing (LHRH) như goserelin, leuprolide và triptorelin; thủ thuật cắt đi buồng trứng.
  • Ung thư tuyến tiền liệt: Thuốc kháng androgen như apalutamide, enzalutamide, darolutamide, bicalutamide, flutamide và nilutamide (còn được gọi là liệu pháp loại bỏ androgen hoặc ADT); thuốc ức chế CYP17 như abiraterone và ketoconazole; hoạt chất chủ vận và hoạt chất đối kháng hormone giải phóng hormone luteinizing (LHRH) như goserelin, leuprolide, triptorelin và degarelix; thủ thuật cắt đi tinh hoàn.
  • Ung thư nội mạc tử cung (niêm mạc tử cung hoặc dạ con): Progestin như medroxyprogesterone acetate hoặc megestrol acetate; các hoạt chất điều biến thụ thể estrogen có chọn lựa lọc (SERMs) như tamoxifen và raloxifene; hoạt chất chủ vận hormone giải phóng hormone luteinizing (LHRH) như goserelin và leuprolide; hoạt chất ức chế Aromatase (AI) như letrozole, anastrozole và exemestane.
  • Ung thư thượng thận: Adrenolytics như mitotane; thuốc đối kháng thụ thể estrogen như fulvestrant và toremifene; các hoạt chất điều biến thụ thể estrogen có chọn lựa lọc (SERMs) như tamoxifen và raloxifene.

Thuốc điều trị ung thư được sử dụng như thế nào?

Thuốc điều trị ung thư có thể đi vào có thể người chứng bệnh theo nhiều nguyên nhân không tương tự nhau. Trong số đó, thường thấy nhất là.

Truyền tĩnh mạch

Y tá hoặc bác sĩ gắn một ống tiêm vào ống truyền để tiêm thuốc. Ống cannula có một nút cao su trên đó và chúng có thể tiêm thuốc qua nút cao su.

một vài loại thuốc điều trị ung thư được pha loãng trong một túi hoạt chất lỏng và người chứng bệnh uống chúng dưới loại nhỏ giọt.

Y tá gắn túi nhỏ giọt vào ống thông hoặc đường truyền trung tâm và thuốc sẽ đi vào tĩnh mạch trong 20 phút hoặc vài giờ. một vài loại thuốc được dùng theo cách này trong vài ngày với một máy bơm điện tử nhỏ sẽ được sử dụng để giữ cho tốc độ liều không đổi.

dùng thuốc điều trị ung thư cho bệnh nhân

Thuốc điều trị ung thư có thể được truyền qua đường tĩnh mạch.

Tiêm bắp 

một vài loại thuốc được tiêm vào cơ (tiêm bắp), thường là ở mông hoặc đùi trên. Người chứng bệnh có thể mắc phải châm chích hoặc đau đớn âm ỉ trong một thời gian ngắn sau khi tiêm.

Tiêm dưới da 

Người chứng bệnh thường được tiêm dưới da ở bụng, đùi hoặc đầu cánh tay. Sau khi tiêm, người chứng bệnh có thể mắc phải châm chích hoặc đau đớn âm ỉ trong một thời gian ngắn song thường không đau đớn nhiều. Da ở khu vực này có thể đỏ và ngứa ngáy trong một thời gian.

Truyền động mạch

Truyền động mạch thường đi vào cơ thể ở giữa ngực, sau đó thuốc sẽ chạy dưới da tới một tĩnh mạch lớn cạnh xương đòn.

PICC dòng

PICC là viết tắt của ống thông trung tâm được chèn ngoại vi. Thuốc sẽ được truyền vào tĩnh mạch dưới vùng cánh tay và kết thúc trong một tĩnh mạch lớn ở ngực. Phương pháp này thường được thực hiện dưới gây ra tê cục bộ. 

Các đường PICC có thể để lại trong vài tháng và được sử dụng theo cách tương tự như phương pháp truyền động mạch.

Portacaths

Portacath là một loại đường trung tâm cụ thể, có một khoang nhỏ hoặc bể chứa nằm dưới da song khó khăn nhìn xuất hiện bằng mắt thường. 

Điều dưỡng sẽ đưa một cây kim vào buồng và tiêm hoặc gắn một ống nhỏ giọt. Kim vẫn giữ nguyên vị trí cho tới khi điều trị được thực hiện. Sau đó, điều dưỡng rút kim cho tới lần điều trị tiếp theo.

Tác dụng phụ của các loại thuốc điều trị ung thư

Các loại thuốc điều trị ung thư thường gây ra ra các tác dụng phụ thường thấy như mệt mỏi, rụng tóc, ăn không ngon miệng, buồn nôn, đau đớn tức cơ xương khớp, mất xương và nguy cơ gãy xương. Nguy cơ cao mắc các loại ung thư không tương tự, đột quỵ, cục máu đông, đục thủy tinh thể và chứng bệnh tim, tăng cân, các vấn đề về trí nhớ,… người chứng bệnh cũng có thể gặp phải.

Riêng các loại thuốc hormone còn có thể gây ra ra tình trạng nóng bừng, suy yếu ham muốn tình dục, tiết huyết trắng, khô hoặc kích ứng ở phụ nữ và rối loạn cương dương dương ở nam giới…

thuốc trị ung thư gây tác dụng phụ

Thuốc điều trị ung thư có thể gây ra mệt mỏi, rụng tóc và nhiều tác dụng phụ không tương tự.

HỆ THỐNG phòng xét nghiệm ĐA KHOA Hưng Thịnh

tới nay có hàng trăm loại thuốc điều trị ung thư từng được phê duyệt để điều trị khỏi hoặc ngăn chặn ung thư tiến triển hoặc thực hiện suy yếu nhẹ các triệu chứng của ung thư theo nhiều cách không tương tự nhau. Bác sĩ Thảo Nghi nhấn mạnh, tất cả loại thuốc đều cần phải sử dụng theo quy trình điều trị của bác sĩ chuyên khoa, người chứng bệnh không nên tìm mua thuốc để tự sử dụng. Bởi vì điều này có thể phản tác dụng, gây ra hậu quả khó khăn lường. 

Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.