Triệu chứng, chẩn đoán và điều trị

Ung thư vú thời kỳ đầu có tiên số lượng tốt, điều trị tốt nhất, giá thành thấp và tỷ lệ sống thêm sau 5 năm cao.

Theo TS.BS Vũ Hữu Khiêm – Trưởng khoa Ung bướu, BVĐK Hưng Thịnh Hà Nội, ung thư vú thời kỳ sớm thường có tiên số lượng tốt, nguy cơ điều trị sống thêm sau 5 năm lên tới 90%. Vì vậy việc phát hiện và điều trị chứng bệnh ngay từ thời kỳ đầu có ý nghĩa rất lớn với thời gian sống thêm của người chứng bệnh sau điều trị.

ung thư vú giai đoạn đầu

Ung thư vú thời kỳ sớm là như nào?

Ung thư vú thời kỳ sớm là ung thư chưa xâm lấn rộng ra ngoài vú hoặc di căn tới các hạch bạch huyết ở nách. 

Ung thư vú xuất phát trong các tế bào lót (biểu mô) của ống dẫn (85%) hoặc tiểu thùy (15%) trong mô tuyến của vú. Lúc đầu, sự tiến triển ung thư chỉ giới hạn ở trong ống dẫn hoặc tiểu thùy (“tại chỗ”), thường không gây nên ra triệu chứng và nguy cơ di căn thấp. (1)

Theo thời gian, những ung thư tại chỗ (thời kỳ 0) này có thể tiến triển và xâm lấn các mô vú xung quanh (ung thư vú xâm lấn). Sau đó, ung thư sẽ di căn tới các hạch bạch huyết lân cận (di căn vùng) hoặc tới các cơ quan không không khác trong cơ thể (di căn xa).

ung thư vú giai đoạn sớm

Ung thư vú thời kỳ sớm tiên số lượng tốt, tỷ lệ sống sau 5 năm gần như 100% sau điều trị

chứng bệnh ung thư vú thời kỳ sớm gồm các thời kỳ

Ung thư vú thời kỳ 0 (ung thư vú biểu mô ống tại chỗ)

Ung thư vú thời kỳ 0, gồm ung thư biểu mô ống tại chỗ (DCIS) và ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS). Đây là một kiểu ung thư vú sớm xuất phát từ ống dẫn sữa hoặc tiểu thùy của vú. 

Ung thư biểu mô tại chỗ tức là ung thư nằm trong ống dẫn hoặc tiểu thùy nơi xuất phát và chưa lan tới các khu vực không không khác của vú hoặc các hạch bạch huyết.

tầm 20% trường hợp ung thư vú mới được chẩn đoán là DCIS. Khi được phát hiện và điều trị ở thời kỳ 0, DCIS có tiên số lượng tốt. (2)

Ung thư vú thời kỳ I

u bướu kích thước dưới 2cm, chưa di căn hạch bạch huyết và thường đáp ứng với điều trị.

Ung thư vú thời kỳ IIA

Không có u bướu thực sự và di căn tới ít hơn bốn hạch bạch huyết ở nách; u bướu từ 2cm-5cm và không di căn hạch bạch huyết; u bướu nhỏ hơn 2cm và di căn ít hơn 4 hạch bạch huyết.

Ung thư vú thời kỳ IIB

u bướu có kích thước từ 2cm-5cm và di căn ít hơn bốn hạch bạch huyết hoặc u bướu lớn hơn 5cm và không di căn tới bất kỳ hạch bạch huyết nào.

Ung thư vú thời kỳ IIIA

u bướu kích thước bất kỳ hoặc không xác định và di căn 4-9 hạch bạch huyết; u bướu lớn hơn 5cm và các tế bào ung thư vú có kích thước từ 0,2-2mm trong các hạch bạch huyết; u bướu lớn hơn 5cm và di căn tới 1-3 hạch bạch huyết.

Triệu chứng ung thư vú thời kỳ đầu

Theo bác sĩ Khiêm, triệu chứng ung thư vú thời kỳ đầu thường không rõ ràng. song nếu có, các triệu chứng ung thư vú thời kỳ đầu có thể gồm:

  • Vú sưng nề
  • đau đớn ở bất kỳ phần nào của vú
  • Xuất hiện u bướu dưới nách hoặc ở vú
  • đau đớn ở vùng núm vú
  • Da vú có dấu hiệu lõm xuống hoặc co kéo
  • Sần đỏ xung quanh khu vực núm vú hoặc da vú
  • Tiết dịch thất thường núm vú
  • thay thế đổi kích thước hoặc hình kiểu của vú

“Ung thư vú thường triệu chứng u bướu không đau đớn hoặc dày lên ở vú. Điều quan trọng khi phát hiện u bướu thất thường ở vú, phụ nữ nên tới ngay phòng xét nghiệm thăm xét nghiệm, không để trễ quá 1-2 tháng nhắc cả khi không có cảm giác đau đớn”, bác sĩ Khiêm lưu ý.

Xem thêm: 5 thời kỳ ung thư vú chị em phụ nữ cần thiết phải hiểu thật chi tiết.

Các phương pháp chẩn đoán ung thư vú thời kỳ sớm

Các xét nghiệm không không khác nhau có thể được sử dụng để tìm và chẩn đoán ung thư vú nói chung và ung thư vú thời kỳ sớm nói riêng. Nếu bác sĩ tìm xuất hiện một khu vực cần thiết phải quan tâm trên xét nghiệm sàng lọc (chụp X-quang tuyến vú) hoặc nếu có các triệu chứng có thể là ung thư vú, bác sĩ sẽ chỉ định thêm các xét nghiệm để biết chắc hẳn đó có phải là ung thư thường hay không.

Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh gồm:

  • Chụp nhũ ảnh: Chụp nhũ ảnh thường được sử dụng trong tầm soát ung thư vú cho kết quả chẩn đoán chuẩn xác cao. Phương pháp chụp nhũ ảnh có thể phát hiện toàn bộ các trường hợp ung thư vú trước khi có triệu chứng. Hệ thống chụp nhũ ảnh 3D – Mammomat Inspiration tại BVĐK Hưng Thịnh có thể tăng tỷ lệ phát hiện ung thư tới 40% và suy yếu tỷ lệ tương ứng với dương tính giả.
tầm soát ung thư vú giai đoạn sớm

Chụp nhũ ảnh tầm soát ung thư vú thời kỳ sớm tại BVĐK Hưng Thịnh

  • Siêu âm: Phương pháp siêu âm vú thường được bác sĩ chỉ định nếu chụp nhũ ảnh không nhạy. Điểm mạnh của siêu âm là có thể phản hồi được độ đặc cũng như kích thước của các u bướu vú.
  • Chụp cộng hưởng từ (MRI): Thường được chỉ định cho các trường hợp nghi ngờ chứng bệnh ác tính đa ổ hoặc hai bên, nhất là ILC và khi phản hồi đáp ứng với hóa trị bổ trợ trước, hoặc khi lập kế hoạch sàng lọc và tiểu phẫu bảo tồn vú ở những người chứng bệnh có nguy cơ cao, hoặc người có tổn thương ẩn. Máy chụp cộng hưởng từ (MRI) của Đức ứng dụng công nghệ “Ma trận sinh học toàn phần” cho kết quả chẩn đoán tin cậy cao vượt trội, tiết kiệm 50% thời gian chụp và làm suy yếu bức xạ so với quy trình chuẩn. Máy này có độ nhạy tốt để phản hồi các thất thường trong các mô mềm, gồm cả vú hiện đang được ứng dụng tại phòng xét nghiệm Đa khoa Hưng Thịnh.
  • Sinh thiết mô: Mô được lấy bằng phương pháp chọc hút (dùng kim nhỏ) hoặc sinh thiết rạch/cắt hoặc sinh thiết lõi. Đây là phương pháp quan trọng giúp cho chẩn đoán xác định chứng bệnh ung thư vú.
dấu hiệu ung thư vú giai đoạn đầu

Sự lây nhiễm lan của tế bào ung thư vú ở mỗi thời kỳ

Tiên số lượng nguy cơ sống của ung thư vú thời kỳ sớm

Bác sĩ Khiêm chứng tỏ, tiên số lượng của ung thư vú thời kỳ sớm rất khả quan. Cả thời kỳ 0 và thời kỳ I đều có tỷ lệ sống thêm sau 5 năm là 100%. Tỷ lệ sống thêm sau 5 năm của ung thư vú thời kỳ II và thời kỳ III tương ứng tầm 93% và 72%. Khi chứng bệnh di căn xa, tầm 22% người chứng bệnh ung thư vú thời kỳ IV sống thêm sau 5 năm tiếp theo.

Các phương pháp điều trị ung thư vú thời kỳ sớm

toàn bộ phụ nữ gặp phải ung thư vú ở thời kỳ I, II hoặc III sẽ được điều trị bằng liệu pháp toàn thân gồm hóa trị liệu; liệu pháp hormone (tamoxifen, dưỡng chất ức chế men aromatase, hoặc fulvestrant); thuốc nhắm mục tiêu, ví như trastuzumab (Herceptin), pertuzumab (Perjeta) hoặc abemaciclib (Verzenio); liệu pháp miễn dịch; hoặc phối hợp. (3)

điều trị ung thư vú giai đoạn đầu

Điều trị ung thư vú thời kỳ 0

Nhiều trường hợp ung thư vú thời kỳ 0 chưa cần thiết phải điều trị. thay thế vào đó, theo dõi sát hoặc phương pháp tiếp cận theo dõi và chờ đợi được khuyến nghị để xem liệu ung thư biểu mô có giữ ổn định thường hay không hoặc liệu có tiến triển thường hay không. Nếu cần thiết phải điều trị, tiểu phẫu, xạ trị hoặc liệu pháp hormone là các phương pháp được khuyến khích.

Nhiều yếu tố sẽ tác động tới kế hoạch điều trị.

tiểu phẫu 

  • xóa bỏ u bướu: tiểu phẫu để loại bỏ mô ung thư và một rìa mô thường thì xung quanh. Sau đó xạ trị được sử dụng như một phương pháp bổ trợ để tiêu diệt tế bào ung thư.
  • xóa bỏ vú: tiểu phẫu xóa bỏ vú nếu có lo ngại rằng có thể có các vùng ung thư không không khác trong vú hoặc nếu có tiền sử gia đình mắc chứng bệnh ung thư vú

Liệu pháp hormone

Tamoxifen thường được chỉ định cho phụ nữ tiền mãn kinh và dưỡng chất ức chế aromatase cho những người mãn kinh. Hai loại thuốc này có thể ngăn chặn estrogen trong ung thư vú dương tính với thụ thể hormone.

Điều trị ung thư vú thời kỳ I

Ung thư vú kích thước tương đối nhỏ và chưa di căn tới các hạch bạch huyết hoặc chỉ di căn khu vực nhỏ trong hạch cửa (hạch bạch huyết đầu tiên mà ung thư có nguy cơ di căn). 

Các phương pháp điều trị ung thư vú thời kỳ I gồm:

Liệu pháp tại chỗ (tiểu phẫu và xạ trị)

tiểu phẫu là phương pháp điều trị hàng đầu cho chứng bệnh ung thư vú thời kỳ I. Những chứng bệnh ung thư thời kỳ này có thể được điều trị bằng tiểu phẫu bảo tồn vú (BCS). đôi lúc được gọi là xóa bỏ u bướu hoặc xóa bỏ một phần vú hoặc xóa bỏ vú. Các hạch bạch huyết gần đó cũng sẽ cần thiết phải được kiểm tra bằng sinh thiết hạch cửa (SLNB) hoặc bóc tách hạch bạch huyết ở nách (ALND).

một vài phụ nữ có thể tạo hình vú cùng lúc với tiểu phẫu loại bỏ ung thư. song nếu người chứng bệnh cần thiết phải xạ trị sau khi tiểu phẫu, tốt hơn là nên đợi để được tạo hình cho tới khi xạ trị xong.

Nếu BCS được thực hiện, xạ trị thường được thực hiện sau khi tiểu phẫu để suy yếu nguy cơ ung thư tái phát tại chỗ và lâu ngày thời gian sống.

Trong một nhóm riêng biệt, phụ nữ từ 65 tuổi trở lên có thể cân nhắc điều trị BCS mà không cần thiết phải xạ trị nếu đáp ứng các tiêu chuẩn sau:

  • u bướu có chiều ngang từ 3cm trở xuống và từng được xóa bỏ hoàn toàn.
  • Không có hạch bạch huyết ác tính nào.
  • Ung thư dương tính với ER hoặc dương tính với PR, và liệu pháp hormone sẽ được chỉ định.

Xạ trị cho những phụ nữ có những tính này thực hiện suy yếu nguy cơ ung thư tái phát, song không giúp cho lâu ngày thời gian sống thêm.

Nếu từng tiểu phẫu xóa bỏ vú, người chứng bệnh ít có nguy cơ cần thiết phải xạ trị hơn, song có thể được thực hiện tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể.

Liệu pháp toàn thân (hóa trị và các loại thuốc không không khác)

Nếu phụ nữ gặp phải ung thư vú dương tính với thụ thể hormone (dương tính với ER hoặc dương tính với PR), toàn bộ các chuyên gia sẽ đề nghị liệu pháp hormone (tamoxifen hoặc dưỡng chất ức chế aromatase, hoặc fulvestrant). Đây là một phương pháp điều trị bổ trợ sau tiểu phẫu, Dù cho u bướu kích thước nhỏ. 

Liệu pháp hormone thường được thực hiện trong ít nhất 5 năm và thường đáp ứng tốt với phụ nữ có u bướu lớn hơn 0,5cm.

Nếu u bướu lớn hơn 0,5cm, người chứng bệnh có thể được chỉ định hóa trị sau tiểu phẫu (hóa trị bổ trợ). Tuổi của phụ nữ khi được chẩn đoán có thể giúp cho quyết định xem có nên chỉ định hóa trị thường hay không. một vài bác sĩ có thể đề nghị hóa trị cho các u bướu nhỏ hơn, đặc biệt nếu có bất kỳ tính nào không thuận lợi. ví như ung thư đang tiến triển nhanh; âm tính với thụ thể hormone, HER2 dương tính; hoặc có điểm số cao trên bảng gen như Oncotype DX.

Sau khi tiểu phẫu, một vài phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với HER2 sẽ được điều trị bằng trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab) trong tối đa 1 năm.

Nhiều phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với HER2 sẽ được điều trị bằng hóa dưỡng chất bổ trợ (trước khi tiểu phẫu) và trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab). Sau đó tiểu phẫu và trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab) sẽ được điều trị trong tối đa 1 năm.

Nếu sau khi điều trị bổ trợ trước, ung thư còn sót lại trong quá trình tiểu phẫu, trastuzumab có thể được đổi thành thuốc không không khác, gọi là ado-trastuzumab emtansine. Thuốc này sẽ được tiêm mỗi 3 tuần với 14 liều.

với những phụ nữ ung thư vú có đột biến BRCA, HER2 âm tính, thụ thể nội tiết dương tính, từng được hóa trị liệu bổ trợ trước song vẫn còn ung thư tại thời điểm tiểu phẫu. Sử dụng thuốc nhắm mục tiêu olaparib sau khi tiểu phẫu trong thời gian một năm để giúp cho lâu ngày thời gian sống thêm.

Điều trị ung thư vú thời kỳ II

Ung thư vú thời kỳ II lớn hơn ung thư thời kỳ I và/hoặc từng di căn tới một vài hạch bạch huyết gần.

Các phương pháp điều trị ung thư vú thời kỳ II gồm:

Liệu pháp tại chỗ (tiểu phẫu và xạ trị)

Ung thư thời kỳ II được điều trị bằng tiểu phẫu bảo tồn vú (BCS) hoặc xóa bỏ vú. đôi lúc phương pháp BCS được gọi là xóa bỏ u bướu hoặc xóa bỏ một phần vú. Các hạch bạch huyết gần cũng sẽ được kiểm tra bằng sinh thiết hạch cửa (SLNB) hoặc bóc tách hạch bạch huyết ở nách (ALND).

Phụ nữ sau BCS được điều trị bằng xạ trị bổ trợ. Sau xóa bỏ vú được điều trị xạ trị nếu di căn hạch. 

một vài người chứng bệnh có SLNB cho xuất hiện ung thư ở một vài hạch bạch huyết có thể không xóa bỏ phần còn lại của các hạch bạch huyết để kiểm tra thêm ung thư. Ở những người chứng bệnh này, xạ trị có thể được sử dụng như một lựa lựa chọn điều trị sau khi tiểu phẫu xóa bỏ vú. (4)

Nếu phụ nữ được chẩn đoán ung thư vú thời kỳ II và từng được điều trị toàn thân như hóa trị hoặc liệu pháp hormone trước khi tiểu phẫu, thì xạ trị có thể được khuyến nghị nếu phát hiện ung thư trong các hạch bạch huyết khi tiểu phẫu xóa bỏ vú. 

Nếu người chứng bệnh cần thiết phải phải hóa trị sau khi tiểu phẫu, quá trình xạ trị sẽ gặp phải trì hoãn cho tới khi hóa trị xong.

Ở một vài phụ nữ, tái tạo vú có thể được thực hiện trong quá trình tiểu phẫu loại bỏ ung thư. song nếu cần thiết phải xạ trị sau khi tiểu phẫu, người chứng bệnh nên chờ đợi xạ trị hoàn tất mới thực hiện tái tạo.

Liệu pháp toàn thân (hóa trị và các loại thuốc không không khác)

Điều trị toàn thân (thuốc đi tới toàn bộ các cơ quan của cơ thể) được khuyến khích cho một vài phụ nữ gặp phải ung thư vú thời kỳ II. một vài liệu pháp toàn thân được đưa ra trước khi tiểu phẫu (liệu pháp bổ trợ trước), và những liệu pháp không không khác được đưa ra sau khi tiểu phẫu (liệu pháp bổ trợ). 

với một vài phụ nữ, liệu pháp toàn thân sẽ được bắt đầu trước khi tiểu phẫu và tiếp tục sau khi tiểu phẫu. Các phương pháp điều trị bổ trợ trước là một lựa lựa chọn tốt cho những phụ nữ có u bướu lớn vì có thể thu nhỏ u bướu trước khi tiểu phẫu.

Điều trị bổ trợ trước cũng là một lựa lựa chọn ưu tiên cho những phụ nữ gặp phải ung thư vú bộ ba âm tính (TNBC) hoặc ung thư vú dương tính với HER2. Bởi vì phương pháp điều trị được đưa ra sau tiểu phẫu thường được lựa lựa chọn tùy thuộc vào tình trạng ung thư vẫn còn trong vú và/hoặc các hạch bạch huyết ở thời gian tiểu phẫu. một vài phụ nữ ung thư thời kỳ sớm được điều trị bổ trợ trước có thể sống lâu hơn nếu chứng bệnh ung thư đáp ứng hoàn toàn với phương pháp điều trị đó.

Để giúp cho quyết định những phụ nữ nào dương tính với thụ thể hormone thời kỳ II, ung thư vú âm tính với HER2 sẽ được hưởng lợi từ hóa trị, một xét nghiệm bảng gen như Oncotype DX có thể được thực hiện trên mẫu u bướu.

Các loại thuốc được sử dụng sẽ phụ thuộc vào tình trạng mãn kinh của phụ nữ, cũng như kết quả xét nghiệm u bướu. 

Các phương pháp điều trị có thể gồm:

  • Hóa trị: có thể được dùng trước và/hoặc sau khi tiểu phẫu.
  • Liệu pháp nhắm trúng đích HER2: một vài phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với HER2 sẽ được điều trị bằng hóa trị bổ trợ (sau tiểu phẫu) với trastuzumab có hoặc không có pertuzumab trong tối đa 1 năm. Nhiều phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với HER2 sẽ được điều trị đầu tiên bằng trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab), sau đó là tiểu phẫu và sau đó là trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab) trong tối đa một năm. Nếu sau khi điều trị bổ trợ trước, ung thư còn sót lại được phát hiện tại thời điểm tiểu phẫu thì có thể sử dụng thuốc nhắm trúng đích ado-trastuzumab emtansine, thay thế vì trastuzumab. với những phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với thụ thể hormone được tìm xuất hiện trong các hạch bạch huyết sau khi hoàn thành 1 năm sử dụng trastuzumab, bác sĩ cũng có thể đề nghị điều trị bổ sung bằng thuốc nhắm trúng đích đường uống neratinib trong 1 năm.
  • Liệu pháp hormone: Nếu ung thư dương tính với thụ thể hormone, liệu pháp hormone (tamoxifen, một dưỡng chất ức chế men aromatase (AI), hoặc fulvestrant) thường được sử dụng. Có thể được bắt đầu trước khi tiểu phẫu và có thể lâu ngày trong 5 năm sau tiểu phẫu. 
  • Điều trị bằng thuốc nhắm mục tiêu: với phụ nữ gặp phải ung thư vú thời kỳ sớm dương tính với thụ thể hormone, âm tính với HER2, di căn hạch và có nguy cơ tái phát cao, thuốc abemaciclib nhắm mục tiêu có thể được sử dụng sau khi tiểu phẫu cùng với tamoxifen hoặc AI. Thuốc thường được dùng trong 2 năm. với những phụ nữ có đột biến BRCA, HER2 âm tính, thụ thể nội tiết dương tính, song vẫn còn ung thư sau khi hóa trị bổ trợ trước, thuốc nhắm mục tiêu olaparib có thể được sử dụng trong một năm để giúp cho suy yếu nguy cơ tái phát và lâu ngày thời gian sống thêm.
  • Liệu pháp miễn dịch: Phụ nữ gặp phải TNBC có thể được dùng thuốc điều trị miễn dịch pembrolizumab trước khi tiểu phẫu và dùng lại sau khi tiểu phẫu. 

Điều trị ung thư vú thời kỳ III

Trong ung thư vú thời kỳ III, u bướu lớn (hơn 5cm) hoặc tiến triển vào các mô lân cận (da trên vú hoặc cơ bên dưới), hoặc ung thư di căn tới nhiều hạch bạch huyết gần.

Nếu phụ nữ gặp phải ung thư vú kiểu viêm: Ung thư thời kỳ III cũng gồm một vài chứng bệnh ung thư vú kiểu viêm chưa di căn ra ngoài các hạch bạch huyết lân cận. Những chứng bệnh ung thư này được điều trị hơi không không khác so với các chứng bệnh ung thư vú thời kỳ III không không khác. 

Có hai cách tiếp cận hàng đầu để điều trị ung thư vú thời kỳ III:

Bắt đầu với liệu pháp bổ trợ trước

Thông thường, thời kỳ này được điều trị bằng hóa trị bổ trợ trước (trước khi tiểu phẫu). với các u bướu dương tính với HER2, thuốc nhắm mục tiêu trastuzumab cũng được sử dụng, thường cùng với pertuzumab (Perjeta). Mục đích thu nhỏ u bướu đủ để tăng nguy cơ tiểu phẫu bảo tồn vú (BCS). 

Nếu u bướu không thu nhỏ đủ, tiểu phẫu xóa bỏ vú sẽ được thực hiện. Các hạch bạch huyết gần đó cũng sẽ cần thiết phải được kiểm tra. Sinh thiết hạch cửa (SLNB) thường không phải là một lựa lựa chọn với ung thư thời kỳ III mà thường là tiểu phẫu bóc tách hạch bạch huyết ở nách (ALND).

Thông thường, xạ trị là cần thiết phải thiết sau khi tiểu phẫu. Nếu có kế hoạch tái tạo vú, thường trì hoãn sau khi xạ trị được thực hiện xong. với một vài người, hóa trị bổ sung cũng được chỉ định sau khi tiểu phẫu.

Sau khi tiểu phẫu, một vài phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với HER2 sẽ được điều trị bằng trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab) trong tối đa một năm. Nhiều phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với HER2 sẽ được điều trị đầu tiên bằng trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab), sau đó là tiểu phẫu và tiếp theo là trastuzumab (có hoặc không có pertuzumab) trong tối đa một năm. 

Nếu sau khi điều trị bổ trợ trước, bất kỳ khối ung thư nào còn sót lại được phát hiện tại thời điểm tiểu phẫu, ado-trastuzumab emtansine có thể được sử dụng thay thế vì trastuzumab. 

với những phụ nữ gặp phải ung thư dương tính với thụ thể hormone ở các hạch bạch huyết, từng hoàn thành một năm dùng trastuzumab, bác sĩ cũng có thể đề nghị điều trị bổ sung bằng một loại thuốc nhắm mục tiêu đường uống có tên là neratinib trong một năm.

Phụ nữ gặp phải ung thư vú dương tính với thụ thể hormone (ER dương tính hoặc dương tính với PR) cũng sẽ được điều trị hormone bổ trợ, thường có thể được thực hiện cùng lúc với trastuzumab.

với những phụ nữ gặp phải ung thư vú dương tính với thụ thể hormone, HER2 âm tính ở trong các hạch bạch huyết và có nguy cơ tái phát cao, có thể tiêm abemaciclib sau khi tiểu phẫu cùng với tamoxifen hoặc AI.

với những phụ nữ ung thư vú có đột biến BRCA, HER2 âm tính, thụ thể nội tiết dương tính, và vẫn còn tế bào ung thư sau khi hóa trị bổ trợ trước, thuốc nhắm mục tiêu olaparib có thể được sử dụng trong một năm để giúp cho suy yếu nguy cơ tái phát và tăng thời gian sống thêm.

Điều trị bổ trợ trước là lựa lựa chọn thích hợp hơn cho phụ nữ gặp phải ung thư vú thời kỳ III TNBC hoặc HER2 dương tính vì phương pháp điều trị được đưa ra sau tiểu phẫu được lựa lựa chọn tùy thuộc vào tình trạng ung thư vẫn còn trong vú và/hoặc các hạch bạch huyết tại thời điểm tiểu phẫu. một vài phụ nữ gặp phải ung thư thời kỳ III được điều trị bổ trợ trước có thể sống lâu hơn nếu chứng bệnh ung thư tan biến hoàn toàn với phương pháp điều trị đó.

Phụ nữ gặp phải TNBC có thể được dùng thuốc điều trị miễn dịch, pembrolizumab, trước khi tiểu phẫu và sau đó dùng lại sau khi tiểu phẫu.

Bắt đầu với tiểu phẫu

Trước tiên, tiểu phẫu là một lựa lựa chọn cho một vài phụ nữ gặp phải ung thư thời kỳ III. Những u bướu này tương đối lớn và/hoặc từng xâm lấn xung quanh nên thường phải tiểu phẫu xóa bỏ vú. 

với những phụ nữ có bộ ngực tương đối lớn, BCS có thể là một lựa lựa chọn nếu ung thư chưa tiến triển vào các mô lân cận. SLNB có thể là một lựa lựa chọn cho một vài người chứng bệnh song toàn bộ sẽ cần thiết phải ALND. 

tiểu phẫu thường được chỉ định sau khi hóa trị bổ trợ trước, và/hoặc liệu pháp hormone, và/hoặc điều trị bằng thuốc nhắm mục tiêu và/hoặc điều trị HER2 dương tính (trastuzumab, pertuzumab hoặc neratinib). Điều này tùy thuộc vào tính của tế bào ung thư. Xạ trị được khuyến khích sau tiểu phẫu.

Tác dụng phụ của các phương pháp điều trị ung thư vú

Bất kỳ phương pháp điều trị nào cũng có nguy cơ xảy ra các hậu quả thường hay tác dụng phụ không xin muốn.

  • Các hậu quả tiểu phẫu gồm: Nhiễm trùng, đau đớn đớn, ra máu, vấn đề thẩm mỹ, sẹo vĩnh viễn, thay thế đổi hoặc mất cảm giác ở vùng ngực và ngực được tái tạo.
  • Các tác dụng phụ của hóa trị gồm: Buồn nôn/nôn mửa và tiêu chảy, rụng tóc, mất trí nhớ, khô bộ phận sinh dục nữ, các triệu chứng mãn kinh, vấn đề sinh sản, chứng bệnh thần kinh.
  • Các tác dụng phụ đi kèm với liệu pháp nội tiết gồm: Nóng bừng, khô bộ phận sinh dục nữ tiết dịch, mệt mỏi, buồn nôn.
  • Xạ trị có thể gây nên ra các tác dụng phụ sau: đau đớn và thay thế đổi da, mệt mỏi, buồn nôn, rụng tóc, các vấn đề về tim và phổi (dài hạn), chứng bệnh thần kinh.
triệu chứng ung thư vú giai đoạn đầu

Người chứng bệnh có thể gặp phải các tác dụng phụ trong và sau quá trình điều trị như rụng tóc, nôn ói, mệt mỏi…

Ung thư vú là chứng bệnh ung thư phổ quát nhất được chẩn đoán ở phụ nữ, chiếm hơn 1/10 trường hợp ung thư mới được chẩn đoán mỗi năm. Đây là nguyên nhân phổ quát thứ hai gây nên tử vong do ung thư ở phụ nữ trên thế giới. Ung thư vú ở phụ nữ xảy ra ở tất cả lứa tuổi sau tuổi mới lớn song tỷ lệ sẽ tăng lên khi tuổi càng lớn dần. Theo thống kê của Globocan năm 2020, Việt Nam có 21.555 ca mắc mới ung thư vú, chiếm tới 25,8% tổng các loại ung thư ở phụ nữ, trong số đó có hơn 9.345 trường hợp tử vong vì căn chứng bệnh này.

Để đặt lịch xét nghiệm, tầm soát và điều trị ung thư vú tại phòng xét nghiệm Đa khoa Hưng Thịnh, Quý khách vui lòng liên hệ:

HỆ THỐNG phòng xét nghiệm ĐA KHOA Hưng Thịnh

Bác sĩ Khiêm khuyến khích, điều trị ung thư vú thời kỳ đầu thường mang tới kết quả tốt với tỷ lệ sống gần như 100%. Do đó việc phát hiện sớm ung thư vú là tiền đề để tốt nhất cho việc điều trị. Phụ nữ nên thường xuyên kiểm tra vú để phát hiện sự thay thế đổi trên da, trong mô vú. Nên thăm xét nghiệm sức khỏe định kỳ mỗi 6 tháng một lần và tới ngay phòng xét nghiệm khi nhận xuất hiện bất kỳ dấu hiệu nào nghi ngờ. 

Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.