Với hơn 5.000 loại nấm hiện nay trên thế giới, chỉ có 3% trong số đó có nguy cơ gây ra chết người (1). Tuy số số lượng ca ngộ độc nấm ít hơn so với các loại ngộ độc không tương tự tuy nhiên tỷ lệ tử vong lại cao hơn rất nhiều. triệu chứng lâm sàng của ngộ độc nấm rất đa kiểu, thường gặp nhất là viêm dạ dày ruột, suy gan, thận hư, hậu quả thần kinh và tán huyết. Vậy ngộ độc nấm là sao? Triệu chứng, nguyên nhân, chẩn đoán và điều trị ra sao?
Ngộ độc nấm là sao?
Ngộ độc nấm là tình trạng cơ thể xuất hiện những triệu chứng thất thường sau khi ăn nhầm nấm độc, từ nhẹ như rối loạn hệ tiêu hóa tới nặng như suy gan, thận hư và để lại di chứng thần kinh. Tùy thuộc vào loại nấm, độc tố và liều số lượng cơ thể dung nạp mà các triệu chứng sẽ không tương tự nhau. (2)
Hội chứng ngộ độc nấm
Gần tới 80% trường hợp không xác định được loại nấm từng ăn. Vì vậy, bác sĩ phải dựa vào dấu hiệu, triệu chứng để hỗ trợ chẩn đoán lâm sàng và điều trị.
Có 12 nhóm độc tố nấm từng được tìm xuất hiện ở nhiều loại nấm không tương tự nhau, triệu chứng qua 14 hội chứng lâm sàng. Nhóm nấm chỉ gây ra độc cấp tính (< 6 giờ sau khi ăn) ít khi đe dọa tới tính mạng. Nhóm nấm gây ra ra các triệu chứng muộn (sau khi ăn 6 giờ) có độc tính nguy hiểm và có nguy cơ gây ra chết người. Tuy nhiên, các triệu chứng đầu tiên không loại trừ nguy cơ ăn phải nấm độc nguy hiểm, đặc biệt khi ăn nhiều loại nấm cùng lúc.
Nhóm nấm độc có triệu chứng cấp tính (<6 giờ sau ăn, ít nguy hiểm)
- Viêm dạ dày ruột cấp: thường xảy ra trong vòng 1-3 giờ, gồm buồn nôn, nôn, đau đớn quặn bụng và tiêu chảy.
- Ảo giác: xuất hiện trong vòng 30 phút tới 2 giờ sau ăn do nấm có chứa psilocybin và psilocin (còn được gọi là “nấm ma thuật”), gây ra lo lắng, hoảng sợ, nghi ngờ, hoang tưởng, nhịp tim nhanh nhẹ, đồng tử giãn.
- Kích thích và ức chế thần kinh trung ương: gây ra ra bởi muscimol và axit ibotenic tập trung ở mũ của Amanita muscaria , Amanita pantherina và các loài nấm tương tự không tương tự. Muscimol là một hoạt chất ức chế hệ thần kinh trung ương. Ngược lại, axit ibotenic có tác dụng kích thích. Các dấu hiệu lâm sàng thường xảy ra trong vòng 30 phút tới 3 giờ sau ăn, gồm:
- Buồn ngủ, hôn mê
- Ảo giác
- Chóng mặt
- Chán chường
- Hành vi kỳ lạ
- Co giật (chủ yếu ở trẻ nhỏ)
- Tiết nước bọt
- Buồn nôn, nôn, tiêu chảy và đau đớn quặn bụng.
Các độc tố axit ibotenic và muscimol tan trong nước. Bóc lớp ngoài của nấm, luộc sơ nấm và đổ bỏ nước có thể khử độc nấm trước khi ăn.
- Ngộ độc cholinergic: do ăn phải độc tố muscarine có trong nhiều loài nấm, gây ra nhịp tim muộn, toát mồ hôi, tăng tiết nước bọt, chảy nước mắt, co đồng tử, co thắt phế quản và tiểu không tự chủ. Không tương tự như ngộ độc cholinergic không tương tự (ví dụ ngộ độc thuốc trừ sâu Phospho hữu cơ), ngộ độc muscarine thường không đe dọa tới tính mạng và thường chỉ tồn tại trong thời gian ngắn trừ khi ăn những lượng lớn nấm.
- Phản ứng tương tự như disulfiram: ăn nấm có chứa coprine, sau đó uống rượu ethanol, dẫn tới phản ứng tương tự như disulfiram. Coprinus atramentarius, nấm “mũ mực” và các loài có mối liên quan thường dẫn tới hội chứng này. Coprine ổn định với nhiệt, vì vậy đun sôi hoặc nấu nấm không ngăn được độc tính. Triệu chứng lâm sàng thường xảy ra trong vòng 2 giờ sau khi uống rượu ethanol, gồm:
- đau đớn đầu
- Đỏ bừng mặt, cổ và thân
- Buồn nôn và nôn
- Nhịp tim nhanh
- đau đớn ngực
- khó khăn thở
- Sợ hãi
- Hiếm khi: hạ huyết áp, rối loạn nhịp tim, lú lẫn và/hoặc hôn mê.
Các dấu hiệu trên tự giới hạn và thường hết sau 3-6 giờ, hiếm khi nhiều ngày tới một ngày.
- Tiêu cơ vân cấp tính: những loài nấm thuộc họ Russula có thể gây ra ra tiêu cơ vân cấp tính trong vòng vài giờ sau khi ăn phải.
Nhóm nấm độc có triệu chứng khởi phát muộn (>6 giờ sau ăn, nguy hiểm nhiều hơn)
- Viêm dạ dày ruột cấp và thận hư muộn: Nấm có chứa allen norleucine, như Amanita smithiana có thể gây ra thận hư cấp tính. Allenic norleucine là một hoạt chất độc bền nhiệt (tức là nấu chín không ngăn được độc tính) gây ra hoại tử ống thận. Những loại nấm này cũng gây ra viêm dạ dày ruột, điển hình là trong vòng 2-6 (tối đa 12) giờ sau ăn, còn độc tính trên thận thường xuất hiện từ 12-một ngày. triệu chứng đầu tiên của thận hư là suy yếu số lượng nước tiểu, thường xuất hiện từ 3-6 ngày sau ăn.
- Viêm dạ dày ruột và nhiễm độc gan muộn: Xuất hiện nôn và tiêu chảy tầm khoảng 6-12 giờ sau ăn nấm, sau đó nhiễm độc gan tiến triển là đặc tính của nấm chứa amatoxin. tầm khoảng 2 ngày sau, suy gan tiến triển xảy ra, gây ra rối loạn đông máu, nhiễm toan, chứng bệnh não gan (có thể co giật), xuất huyết, thận hư và trong vòng 4-7 ngày có thể tử vong.
- thận hư muộn: Các hoạt chất độc orellanine, orellinine, cortinarin A và cortinarin B, có mối liên quan tới thận hư cấp xảy ra từ 3-20 ngày sau ăn nấm. Các triệu chứng đầu tiên không đặc hiệu và thường gồm đau đớn đầu, buồn nôn, nôn, tiêu chảy, đau đớn bụng, đau đớn cơ và chóng mặt xảy ra trong vòng 4 ngày sau ăn nấm. Sau đó, viêm thận kẽ dẫn tới thận hư triệu chứng qua đau đớn vùng thắt vùng eo lưng, thiểu niệu hoặc đa niệu, đái mủ, đái máu và/hoặc protein niệu.
- Tiêu cơ vân muộn: Nấm Tricholoma equestre, còn được gọi là “người nam giới trên vùng eo lưng ngựa”, có thể gây ra tiêu cơ vân khi ăn với số số lượng lớn, xảy ra trong 24 – 72 giờ sau ăn, gây ra mệt mỏi, buồn nôn, đau đớn cơ và yếu cơ; xét nghiệm máu có tăng kali và creatine kinase.
Các triệu chứng thường ít gặp:
- đau đớn đỏ da:
- Nấm có chứa axit acromelic có thể gây ra các triệu chứng sau:
- Các thất thường về cảm giác, gồm dị cảm ở đầu chi, mất ngủ.
- Nổi ban đỏ
- Phù tay chân
- Nấm có chứa axit acromelic có thể gây ra các triệu chứng sau:
Các triệu chứng thường xuất hiện sau một ngày và có thể tồn tại trong vài tháng.
-
- Nấm hương: có thể gây ra viêm da tiếp xúc dị ứng, gây ra ngứa ngáy, ban đỏ.
- Thiếu máu tán huyết qua trung gian miễn dịch: nấm Paxillus involutus có thể gây ra thiếu máu tán huyết tự miễn dịch, huyết sắc tố niệu và tổn thương thận cấp tính.
- Viêm phế quản phế nang dị ứng: hít phải các bào tử từ nấm bông (loài Lycoperdon) gây ra viêm phổi lan tỏa được gọi là Lycoperdonosis, có thể gây ra suy hô hấp.
Nguyên nhân gây ra ngộ độc nấm
Nguyên nhân gây ra ngộ độc nấm thường do nạn nhân không xác định được loại nấm dại nào ăn được và loại nào không ăn được, vì vậy tiêu thụ nhầm nấm độc. Rất khó khăn để phân biệt loại nấm nào độc vì ngày càng nhiều chủng loại nấm mới xuất hiện. Theo kinh nghiệm dân gian thì đa số các loại nấm độc sẽ có màu sắc sặc sỡ, với phần gốc sưng đỏ hơn phần thân, tuy nhiên cũng có nhiều loại nấm độc trông rất tương tự các loại nấm thông thường. vậy nên các loại nấm dại nên xem chúng là nấm độc và chỉ sử dụng khi biết chắc hẳn có thể ăn được.
Chẩn đoán ngộ độc nấm
Hỏi chứng bệnh: giúp cho xác định loại nấm từng ăn cũng như hướng dẫn điều trị.
- Nấm được thu thập ở đâu (cánh đồng, đồng cỏ, dọc theo hoặc dưới gốc cây), hình dáng như thế nào?
- Hái hoặc ăn nhiều loại nấm thường một loại, ăn một bữa thường nhiều bữa?
- Tất cả những người ăn nấm đều gặp phải chứng bệnh thường không ? Những người không ăn nấm có gặp phải chứng bệnh không?
- Bao lâu sau khi ăn nấm thì các triệu chứng bắt đầu?
- Có phải nấm được thu thập và/hoặc ăn để tạo ảo giác không?
- Có uống rượu sau khi ăn nấm không?
Lâm sàng
- Phân loại ngộ độc dựa trên triệu chứng lâm sàng (hội chứng ngộ độc nấm từng nói ở trên).
- Tham khảo thêm ý kiến của chuyên gia về độc học.
Cận lâm sàng
- Phát hiện độc tố nấm: có những bộ test thử độc tố nấm.
- Các xét nghiệm nhận xét mất nước và rối loạn điện giải, tác dụng gan thận, đông máu…
- Cách lấy mẫu các loại nấm từng ăn: Nấm nguyên cây được ưu tiên hơn, tuy nhiên có thể nhận kiểu trên các cơ quan của nấm, đặc biệt phần mũ. Bảo quản bằng cách bọc nấm trong giấy sáp, đặt vào túi giấy và thực hiện lạnh mẫu. Không nên lưu trữ trong túi nhựa.
Chẩn đoán phân biệt
Ngộ độc thức ăn do các nguyên nhân không tương tự: vi khuẩn, độc tố vi khuẩn, dư số lượng hóa hoạt chất trong thực phẩm…
Cách xử trí khi có dấu hiệu ngộ độc nấm
Khi phát hiện người chứng bệnh có triệu chứng ngộ độc nấm, cần phải liên hệ ngay tới khu vực y tế hoặc trung tâm y tế gần nhất để nhận được sự hỗ trợ sớm.
- gây ra nôn: nếu phát hiện người chứng bệnh ăn nấm độc tuy nhiên còn tỉnh táo, chưa nôn nhiều thì cần phải cho nạn nhân uống thật nhiều nước và tiến hành gây ra nôn để loại bỏ hoạt chất độc hại ra khỏi cơ thể.
- Bù nước cho cơ thể bằng cách cho người chứng bệnh uống nước thường xuyên và có thể dùng Oresol để bổ sung các hoạt chất điện giải.
- Than hoạt tính: cho người chứng bệnh uống than hoạt tính với liều số lượng 1 gam/kg trọng số lượng cơ thể.
- Tuyệt đối không cho người chứng bệnh uống các loại thuốc có chứa cồn vì cồn thực hiện hoạt chất độc ngấm rất nhanh vào máu, tăng hiệu lực của độc tố dẫn tới tình trạng nguy hiểm.
- Nếu còn mẫu nấm hoặc thức ăn nấu từ nấm nên mang tới khu vực y tế để các chuyên gia xác định loại nấm. Mỗi chủng nấm sẽ sở hữu loại độc và hàm số lượng độc tố không tương tự nhau, vì vậy điều này sẽ hỗ trợ đắc lực cho công tác cấp cứu, giúp cho việc điều trị trở nên nhanh chóng, thuận tiện và dễ thực hiện hơn.
- Trường hợp người chứng bệnh hôn mê hoặc co giật: đặt người chứng bệnh nằm nghiêng.
- Trường hợp người chứng bệnh gặp các vấn đề về hô hấp như thở yếu hoặc ngừng thở: tiến hành hô hấp nhân tạo bằng các phương tiện cấp cứu tại chỗ.
- Trường hợp ngộ độc nấm tuy nhiên có triệu chứng muộn, người chứng bệnh cần phải được đưa tới điều trị tại các khu vực y tế có phương tiện hồi sức tích cực tốt.
- Người chứng bệnh không nên tự ý rời khu vực y tế, nhắc cả khi các triệu chứng ngộ độc từng hết để các chuyên gia có thể tiếp tục theo dõi và kiểm tra tình trạng sức khỏe, tránh nguy cơ để lại các hậu quả.
- Những người chứng bệnh sau đây cần phải phải nhập viện:
- người chứng bệnh có các triệu chứng muộn sau 6 giờ ăn nấm.
- người chứng bệnh có các triệu chứng đầu tiên dưới 3 giờ sau khi ăn nấm và vẫn còn triệu chứng sau 6 giờ mặc dù từng được chăm sóc hỗ trợ hoặc những người ăn nhiều loại nấm cùng lúc.
- người chứng bệnh có triệu chứng tiêu cơ vân, nhiễm độc gan hoặc thận hư.
- Những người chứng bệnh hiện tại không có triệu chứng tuy nhiên nghi ngờ ăn phải nấm có chứa amatoxin.
- người chứng bệnh không có triệu chứng tuy nhiên không thể tự theo dõi tại nhà trong một ngày.
Cách điều trị ngộ độc nấm như thế nào?
Trong trường hợp không thể xác định rõ ràng loại nấm, tất cả các trường hợp ngộ độc nấm đều nghiêm trọng và có nguy cơ gây ra tử vong. Một khi bác sĩ chẩn đoán được độc tính của nấm, việc điều trị chủ yếu sẽ giúp cho hỗ trợ hồi sức cho người chứng bệnh. Hồi sức bằng bù dịch sớm rất quan trọng với các hội chứng nhiễm độc gan và thận.
Nạn nhân có thể được rửa dạ dày khi ăn nấm độc (như amatoxin). Sau 1 giờ nhắc từ khi ăn phải nấm độc, không nên tiến hành rửa dạ dày cho người chứng bệnh. Sử dụng than hoạt tính sẽ đóng vai trò quan trọng hơn nhiều trong việc hạn chế cơ thể hấp thu các hoạt chất độc và được bác sĩ chỉ định cho tất cả các người chứng bệnh ngộ độc nấm amatoxin bất nhắc thời điểm nhập viện. Khi nghi ngờ gặp phải trúng độc amatoxin, người chứng bệnh nên dùng than hoạt tính nhiều lần (2-3 giờ một lần/24-hai ngày) để thực hiện gián đoạn quá trình tuần hoàn của độc tố. Nói chung, trẻ nhỏ và người già dễ gặp phải suy suy yếu thể tích nội mạch và ngộ độc nấm hơn người trưởng thành khỏe mạnh. (3)
Bác sĩ có thể kê đơn Benzodiazepine cho người chứng bệnh khi người chứng bệnh xuất hiện dấu hiệu ngộ độc tác động tới thần kinh còn Atropine có thể được dùng để điều trị các triệu chứng muscarin nặng (ví dụ, thở khò khè, nhịp tim muộn).
Methemoglobin huyết do gyromitrin: điều trị bằng xanh methylene (1-2 mg/kg truyền muộn trong 5 phút) nếu methemoglobin trên 20% hoặc gây ra ra các triệu chứng.
Phản ứng disulfiram: những chuyên gia sẽ tiêm fomepizole (15 mg/kg tiêm tĩnh mạch) cho những người chứng bệnh có phản ứng disulfiram nghiêm trọng hoặc đe dọa tới tính mạng (nôn mửa nghiêm trọng, dai dẳng; đau đớn ngực hoặc sốc) với tình trạng có ethanol trong huyết thanh sau khi ăn nấm chứa coprine.
Cách phòng ngừa ngộ độc nấm
Hiện nay có rất nhiều trường hợp nấm độc có hình kiểu và màu sắc tương tự nấm thường. Vì vậy để phòng ngừa ngộ độc nấm cần phải: (4)
- Tuyệt đối không tiêu thụ nấm không rõ nguồn gốc xuất xứ. Chỉ nên sử dụng các loại nấm thông dụng từng được kiểm định an toàn.
- Không ăn nấm chưa trưởng thành vì các đặc tính cấu trúc của nấm còn chưa tiến triển hoàn toàn nên không thể xác định rõ loại nấm. Không nên ăn nấm quá già.
- Không nên cho động vật ăn thử, vì sẽ có loại nấm triệu chứng ngộ độc rất muộn từ 20 – một ngày sau khi ăn rất nguy hiểm.
- Khi phát hiện người chứng bệnh gặp phải ngộ độc nấm cần phải phải đưa không những người gặp phải ngộ độc và mà còn tất cả những người cùng ăn chung loại nấm tới khoa cấp cứu ngay để được điều trị và theo dõi sớm.
- Nên sơ chế và sử dụng ngay các loại nấm thông dụng để giữ gìn an toàn. Nếu để nấm lâu ngày, khi vi khuẩn xâm nhập thực hiện nấm dễ gặp phải hư và chuyển thành nấm độc.
những dấu hiệu nhận biết nấm độc thường gặp
Tính tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có phép thử nào để xác định một loại nấm có thể ăn khỏi được không, vì vậy tuyệt đối không ăn nấm trừ khi biết chuẩn xác chủng loại và độ an toàn của nấm. Nấm phải được cơ quan có thẩm quyền xác minh nguồn gốc trước khi sử dụng. hoạt chất độc trong các loại nấm rất không tương tự nhau về thành phần hóa học, do đó tác động của chúng không tương tự nhau đáng nhắc tùy theo chủng loại và phân ngành. Không nên xem nhẹ bất kỳ triệu chứng không tương tự thường nào, nếu nghi ngờ mình hoặc những người xung quanh gặp phải ngộ độc nấm thì cần phải tìm kiếm sự trợ giúp cho y tế ngay lập tức, tránh để lâu gây ra nguy hiểm tới tính mạng.
Khoa Cấp cứu, BVĐK Hưng Thịnh quy tụ hệ thống bác sĩ giàu kinh nghiệm xử lý các tình trạng khẩn cấp về sức khỏe 24/7. Với nhiều chuyên môn sâu và nhiều năm kinh nghiệm, các chuyên gia sẽ tiến hành nhận xét, phân loại tình trạng và tình trạng chứng bệnh, đồng thời thực hiện các công nghệ cấp cứu thích hợp theo tình trạng ưu tiên cấp cứu ngay khi người chứng bệnh được chuyển sang viện. Trang thiết gặp phải tiên tiến được nhập khẩu hàng đầu hãng từ Âu – Mỹ sẽ hỗ trợ đắc lực để giành lại sự sống cho người chứng bệnh.
HỆ THỐNG khu vực y tế ĐA KHOA Hưng Thịnh
Ngay khi nghi ngờ người chứng bệnh có những triệu chứng ngộ độc nấm, cần phải đưa nạn nhân tới ngay khu vực y tế hoặc khu vực y tế gần nhất để được điều trị sớm, giúp cho người chứng bệnh vượt qua cơn nguy kịch, nhanh chóng khôi phục sức khỏe.