Gần 50% người chứng bệnh ung thư phổi đã từng tiến triển tới thời kỳ cuối khi được phát hiện chứng bệnh. Ung thư phổi thời kỳ cuối, u bướu có thể đã từng di căn nhiều nơi và gây ra tổn hại nghiêm trọng tới sức khỏe người chứng bệnh.
Ung thư phổi thời kỳ cuối là như thế nào?
Ung thư phổi thời kỳ cuối là thời kỳ u bướu đã từng di căn tới những cơ quan không không khác như phổi đối bên, não, gan, xương, tuyến thượng thận… hoặc di căn tới những hạch không phải hạch vùng. Trong thời kỳ này, ung thư không còn nguy cơ điều trị triệt để (điều trị khỏi chứng bệnh), các phương pháp điều trị chủ yếu nhằm mục đích tiến hành muộn sự tiến triển chứng bệnh, nhiều ngày thời gian sống, suy nhược nhẹ triệu chứng, nâng cao tin cậy cuộc sống cho người chứng bệnh.
Theo hướng dẫn của Ủy ban Liên hợp về Ung thư Hoa Kỳ phiên bản 8 năm 2017 (AJCC: the American Joint Committee on Cancer), ung thư phổi không tế bào nhỏ được phân thời kỳ dựa trên đặc tính của 3 yếu tố:
- T (Tumor – u bướu): Vị trí và kích thước, tình trạng xâm lấn của u bướu.
- N (Node – Di căn hạch bạch huyết): Tình trạng di căn tới các hạch bạch huyết lân cận (còn gọi là hạch vùng).
- M (Metastasis – Di căn xa): Tình trạng di căn xa tới các cơ quan không không khác trong cơ thể như phổi đối bên, não, xương, tuyến thượng thận… hoặc di căn tới các hạch không phải hạch vùng.
Dựa trên các yếu tố T, N, M, ung thư phổi không tế bào nhỏ được phân thời kỳ từ 0 tới IV. trong số đó, ung thư phổi không tế bào nhỏ thời kỳ cuối gồm các thời kỳ IVA, IVB, IVC, được mô tả như sau:
- thời kỳ IVA: Di căn phổi đối bên, di căn màng phổi, màng ngoài tim hoặc có tình trạng tràn dịch màng phổi, tràn dịch màng ngoài tim ác tính.
- thời kỳ IVB: Di căn tổn thương đơn độc tại một vị trí không không khác ngoài lồng ngực (gồm di căn hạch không phải hạch vùng).
- thời kỳ IVC: Di căn nhiều tổn thương ở một hoặc nhiều cơ quan ngoài lồng ngực.
Triệu chứng ung thư phổi thời kỳ cuối
Các triệu chứng người chứng bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ thời kỳ cuối có thể gặp phải gồm: (1)
- Ho, viêm phế quản hoặc viêm phổi nhiều ngày hoặc tái phát không tăng cường với điều trị nội khoa;
- Ho ra máu, khạc ra máu màu đỏ bầm hoặc đỏ tươi;
- đau đớn ngực thường xuyên;
- Cảm giác hụt hơi, không dễ dàng thở liên tục hoặc khi gắng sức, cảm giác thiếu sức khi thực hiện các vận động thường ngày (như đi bộ, leo cầu thang…);
- Mệt mỏi, chán ăn, sụt cân. Người chứng bệnh có thể gặp phải các dấu hiệu suy mòn (sự suy nhược khối số lượng cơ, xương của cơ thể). Suy mòn có thể không phục hồi nhắc cả khi được hỗ trợ dinh dưỡng, khiến cho người chứng bệnh ngày càng trở nên suy kiệt hơn.
Tùy thuộc vào vị trí, tình trạng xâm lấn của u bướu, những triệu chứng không không khác cũng có thể xuất hiện như:
- đau đớn ngực, đau đớn xương sườn, đau đớn vai và đau đớn vùng eo lưng do u bướu xâm lấn thành ngực, cột sống;
- Nuốt không dễ dàng, nuốt nghẹn do u bướu xâm lấn thực quản;
- Khàn tiếng do u bướu xâm lấn thần kinh quặt ngược thanh quản.
Ngoài các triệu chứng do u bướu nguyên phát từ phổi gây ra ra, người chứng bệnh còn có thể gặp phải các triệu chứng do các tổn thương di căn, gồm:
- Tràn dịch màng phổi, màng ngoài tim: do tế bào ung thư di căn tới màng phổi, màng tim gây ra tình trạng ứ dịch trong khoang màng phổi, khoang màng ngoài tim. Tình trạng tràn dịch có thể dẫn tới các tác hại cấp tính nghiêm trọng như suy hô hấp, đè nén tim…
- u bướu di căn não: gây ra đau đớn đầu, nôn ói, mất thăng bằng, co giật…
- u bướu di căn xương: gây ra đau đớn vùng eo lưng, đau đớn cột sống, gãy xương, đè nén tủy (gây ra yếu liệt chi, tiêu tiểu không tự chủ…), tăng canxi máu…
- u bướu di căn gan: gây ra đau đớn vùng hạ sườn phải, tràn dịch màng bụng, vàng da…
đi kèm những triệu chứng về mặt thể dinh dưỡng, người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối có thể gặp phải các vấn đề tinh thần như rối loạn lo âu, trầm cảm, hoặc có những cảm xúc đau đớn buồn, mất niềm tin… Vì vậy, người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối cần phải có một kế hoạch chăm sóc và điều trị toàn diện. (2)
Ung thư phổi thời kỳ cuối sống được bao lâu?
với ung thư phổi thời kỳ cuối, các liệu pháp điều trị hầu như không còn nguy cơ điều trị triệt để (điều trị khỏi chứng bệnh). Mục tiêu điều trị chủ yếu tập trung vào việc suy nhược nhẹ sự đau đớn đớn, nâng cao tin cậy cuộc sống, hạn chế sự tiến triển của chứng bệnh và nhiều ngày thời gian sống cho người chứng bệnh.
Hiện nay, với sự tiến triển của các liệu pháp điều trị mới, thời gian sống còn của người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối đã từng được tăng cường đáng nhắc, thậm chí có thể nhiều ngày nhiều năm nhắc từ khi được chẩn đoán chứng bệnh. Ngoài thời kỳ ung thư, tiên số lượng sống của người chứng bệnh phụ thuộc vào nhiều yếu tố như: thể trạng, loại giải phẫu chứng bệnh của ung thư phổi, tình trạng đột biến gen, phương pháp điều trị và tình trạng đáp ứng với điều trị, chứng bệnh nền đi kèm, tâm lý và sự tuân thủ điều trị của người chứng bệnh.
Theo thống kê của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ, tỷ lệ sống sau 5 năm của người chứng bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ thời kỳ cuối là 8%. tuy vậy nếu không được điều trị đặc hiệu, thời gian sống trung bình của người chứng bệnh chỉ nhiều ngày trong vòng 7 tháng.
Ung thư phổi thời kỳ cuối có lây nhiễm không?
Bản dinh dưỡng u bướu là do sự tăng sinh mất kiểm soát từ các tế bào thất thường, nên hoàn toàn không có nguy cơ lây nhiễm nhiễm từ người này sang người không không khác như các chứng bệnh truyền nhiễm như vi khuẩn, virus.
Điều trị ung thư phổi thời kỳ cuối
Người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối có thể gặp nhiều triệu chứng không dễ chịu về thể dinh dưỡng từ căn chứng bệnh ung thư (đau đớn tức, không dễ dàng thở, suy kiệt…) và từ các tác dụng phụ, tác hại của các liệu pháp điều trị. Đồng thời, người chứng bệnh còn chịu đựng sự đau đớn khổ về tâm lý, xã hội, tâm linh. Vì vậy, việc chăm sóc và điều trị người chứng bệnh cần phải có kế hoạch toàn diện, phối hợp giữa các liệu pháp điều trị ung thư và chăm sóc suy nhược nhẹ.
với ung thư phổi thời kỳ cuối, điều trị toàn thân bằng thuốc (hóa trị, liệu pháp miễn dịch, nhắm trúng đích) có vai trò chủ yếu yếu. Mặc dù không thể điều trị khỏi chứng bệnh, tuy vậy với sự tiến triển của những liệu pháp điều trị mới, thời gian sống của người chứng bệnh ung thư phổi đã từng được tăng cường đáng nhắc.
- Hóa trị: Các thuốc hóa dinh dưỡng được sử dụng bằng cách truyền tĩnh mạch hoặc uống. Mỗi loại hóa dinh dưỡng sẽ có cơ chế tác động không không khác nhau vào tế bào ung thư. Hóa trị được tiến hành theo từng đợt (chu kỳ), có thời điểm nghỉ giữa một đợt, người chứng bệnh có thời gian phục hồi trước đợt điều trị tiếp theo. Hóa dinh dưỡng được truyền muộn qua tĩnh mạch, từ đó đi khắp cơ thể người chứng bệnh. Trong những quy trình hiện tại, hóa trị có thể phối hợp liệu pháp miễn dịch, từ đó tăng nguy cơ kiểm soát chứng bệnh, nâng cao hữu hiệu điều trị.
- Liệu pháp nhắm trúng đích: Các thuốc nhắm trúng đích có thể tác động những đột biến gen nhất định. Người chứng bệnh cần phải được xét nghiệm đột biến gen qua mẫu mô (u bướu, hạch được sinh thiết) hoặc qua mẫu máu, nhằm xác định các đột biến gen phù hợp với mỗi liệu pháp điều trị.
- Liệu pháp miễn dịch: Tế bào ung thư có nguy cơ tránh được các vận động của tế bào miễn dịch trong cơ thể. Liệu pháp miễn dịch ngăn ngừa cơ chế này bằng cách giúp cho các tế bào miễn dịch tăng nguy cơ nhận biết tế bào ung thư. Liệu pháp miễn dịch có thể sử dụng đơn lẻ hoặc phối hợp với hóa trị. Trong một tỷ lệ, người chứng bệnh cần phải được xét nghiệm để xác định các đột biến gen phù hợp trước khi lựa lựa chọn phác điều trị.
- Xạ trị: với ung thư phổi thời kỳ cuối, vai trò của xạ trị chủ yếu nhằm suy nhược nhẹ các triệu chứng hoặc điều trị các tác hại như: xạ trị suy nhược đau đớn, xạ trị chống đè nén tủy, xạ trị trong hội chứng tĩnh mạch chủ trên…
- Chăm sóc suy nhược nhẹ: Liệu pháp này có vai trò rất quan trọng trong điều trị ung thư phổi thời kỳ cuối. Theo Tổ chức Y tế Thế giới: “Chăm sóc suy nhược nhẹ là vận động nhằm tăng cường tin cậy cuộc sống của người chứng bệnh và gia đình người chứng bệnh, những người đang đối mặt với những vấn đề mối quan hệ tới sự ốm đau đớn đe dọa tới tính mạng, thông qua sự ngăn ngừa và tiến hành suy nhược gánh nặng họ chịu đựng bằng cách nhận biết sớm, phản hồi toàn diện và điều trị đau đớn và các vấn đề không không khác, thể dinh dưỡng, tâm lý, xã hội và tâm linh.”
Trong một tỷ lệ, người chứng bệnh có thể trạng yếu, suy kiệt, không thể thực hiện các liệu pháp điều trị đặc hiệu hoặc đôi lúc người chứng bệnh không muốn điều trị đặc hiệu (hóa trị, liệu pháp miễn dịch…). Lúc này, việc điều trị sẽ tập trung vào chăm sóc suy nhược nhẹ để suy nhược sự đau đớn đớn, nâng cao tin cậy cuộc sống cho người chứng bệnh.
Chăm sóc người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối
Chăm sóc người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối có thể tiến hành ở nhà, ở địa điểm xét nghiệm trị chứng bệnh ngoại trú hoặc trong trung tâm y tế, tùy thuộc vào xin muốn và điều kiện của người chứng bệnh.
Người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối cần phải được quan tâm tới các vấn đề, các triệu chứng đang trực tiếp gây ra không dễ chịu cho người chứng bệnh. cần phải lưu ý rằng, mục tiêu chăm sóc quan trọng nhất trong thời điểm này chủ yếu là sự dễ chịu của người chứng bệnh. Người chăm sóc và nhân viên y tế cần phải thảo luận với người chứng bệnh về những không dễ dàng khăn mà người chứng bệnh đang gặp phải. Từ đó, có thể đưa ra kế hoạch chăm sóc phù hợp nhất với thể dinh dưỡng, nguyện vọng của người chứng bệnh. Ngoài ra, chăm sóc suy nhược nhẹ có thể hỗ trợ thân nhân có những kỹ năng chăm sóc người chứng bệnh trong thời kỳ cuối, đồng thời hỗ trợ tinh thần để thân nhân vượt qua nỗi đau đớn mất mát. (3)
Để đặt lịch xét nghiệm, tư vấn, điều trị và chăm sóc suy nhược nhẹ tại khoa Ung bướu, BVĐK Hưng Thịnh, Quý khách hàng vui lòng liên hệ:
HỆ THỐNG trung tâm y tế ĐA KHOA Hưng Thịnh
Tại khoa Ung bướu BVĐK Hưng Thịnh, quá trình chăm sóc suy nhược nhẹ được bắt đầu từ khi người chứng bệnh phát hiện ung thư, và xảy ra trong suốt thời gian điều trị chứng bệnh. giúp cho người chứng bệnh ung thư phổi thời kỳ cuối ít gặp các triệu chứng nặng hơn, có tin cậy cuộc sống tốt hơn, và thỏa mãn hơn với việc điều trị.