Yếu tố nguy cơ gây nên ung thư vú

Ít vận động, uống rượu bia, thừa cân, dậy thì sớm hoặc mãn kinh muộn, đột biến gene như BRCA1, BRCA2… là các yếu tố nguy cơ ung thư vú.

Thạc sĩ bác sĩ Nguyễn Đỗ Thùy Giang, Trưởng khoa Ngoại Vú, BVĐK Tâm Anh TP HCM, cho rằng các nhà nghiên cứu từng xây dựng một vài công cụ thống kê giúp cho dự đoán nguy cơ mắc chứng bệnh ung thư vú của phụ nữ. Ví dụ, công cụ Gail model thường được sử dụng để phản hồi nguy cơ nguy cơ ung thư vú của một người trong 5 năm tới và trong suốt cuộc đời dựa trên nhiều yếu tố. Tuy nhiên, công cụ này chỉ xem xét tiền căn gia đình của những người thân (như anh chị em ruột, phụ huynh và con cái). Nó không thể được sử dụng để ước tính nguy cơ nếu bạn có tiền sử ung thư biểu mô ống tuyến vú tại chỗ (DCIS), ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS) hoặc ung thư vú hoặc mắc hội chứng ung thư gia đình.

Ngoài ra, dữ liệu mà công cụ này dựa vào không gồm có phụ nữ thổ dân da đỏ hoặc Alaska. Vì vậy, ước tính cho những phụ nữ này có thể không chuẩn xác. Các công cụ phản hồi nguy cơ không tương tự, ví dụ như Tyrer-Cuzick và Claus, phần lớn dựa trên tiền căn gia đình. Những công cụ này có thể đem đến cho một người ước tính sơ bộ về nguy cơ. song theo bác sĩ Thùy Giang, không có công cụ hoặc xét nghiệm nào có thể cho rằng chắc hẳn một người có mắc phải ung thư vú thường không. Dưới đây là các yếu tố nguy cơ gây nên ung thư vú cần thiết phải quan tâm.

Lớn tuổi: Nguy cơ tiến triển ung thư vú tăng theo lứa tuổi. toàn bộ các chứng bệnh ung thư tiến triển sau 50 tuổi. lứa tuổi trung bình để tiến triển ung thư vú là 63.

Có chứng bệnh ác tính hoặc lành tính tại vú: Phụ nữ có tiền sử mắc phải ung thư vú hoặc chứng bệnh vú lành tính, ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS)… có nguy cơ ung thư vú cao hơn.

thói quen sinh hoạt: Cũng như các loại ung thư không tương tự, yếu tố thói quen sinh hoạt không tương tự nhau góp phần vào sự tiến triển của ung thư vú. Sau mãn kinh, thừa cân… là các yếu tố thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú.

Ít vận động: Có sự liên quan tới tăng nguy cơ tiến triển ung thư vú và tái phát ung thư cao hơn sau khi điều trị.

Rượu bia: Uống nhiều hơn 1-2 phần rượu, gồm có bia, rượu vang và rượu mạnh, mỗi ngày sẽ thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú. Cụ thể, một người thông thường không nên uống quá một đơn vị rượu một ngày (một đơn vị rượu chứa 10 g cồn), tương đương 30 ml rượu mạnh (40-43 độ); 100 ml rượu vang (13,5 độ); 330 ml bia hơi (5 độ); 2/3 chai 500 ml hoặc lon bia 330 ml (5 độ).

Thực phẩm: Ăn nhiều trái cây, rau quả và ít hoạt chất béo động vật có sự liên quan tới nhiều lợi ích sức khỏe, gồm có suy giảm nguy cơ ung thư vú.

Thừa cân, béo phì: Thừa cân, béo phì… là các yếu tố thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú. Do đó, tất cả người cần thiết phải có chế độ sinh hoạt, sinh hoạt lành mạnh, giữ cân nặng ở mức thông thường.

Dậy thì sớm hoặc bước vào mãn kinh muộn: Nếu một người phụ nữ có kinh nguyệt trước 11 hoặc 12 tuổi hoặc thời kỳ mãn kinh bắt đầu sau 55 tuổi thì nguy cơ ung thư vú sẽ cao hơn. Điều này là do các tế bào vú từng tiếp xúc với estrogen và progesterone trong một thời gian dài. Estrogen và progesterone là những hormone kiểm soát sự tiến triển của các tính giới tính như tiến triển vú và mang thai. Việc sản xuất estrogen và progesterone suy giảm dần theo tuổi tác, suy giảm mạnh vào thời kỳ mãn kinh. Tiếp xúc lâu hơn với các kích thích tố này thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú.

Phụ nữ lớn tuổi mới có con đầu lòng hoặc không sinh con hoặc không nuôi con bằng sữa mẹ: Mang thai thực hiện suy giảm số vòng kinh nguyệt trong đời người phụ nữ. Mô vú tiếp xúc với nhiều estrogen hơn trong thời gian dài hơn ở những phụ nữ mang thai lần đầu sau 35 tuổi hoặc những người không bao giờ mang thai.

Phụ nữ một vài đột biến về gene như BRCA1 hoặc BRCA2: BRCA1 hoặc BRCA2 là những gene thường gặp nhất được biết tới có sự liên quan tới ung thư vú, ung thư buồng trứng và các loại ung thư không tương tự. Ung thư vú ở nam giới, nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt và các chứng bệnh ung thư không tương tự cũng tăng lên nếu có đột biến ở một trong những gene này.





Thừa cân, béo phì... là các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư vú. Ảnh: Freepik

Thừa cân, béo phì… là các yếu tố thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú. Ảnh: Freepik

Sử dụng các liệu pháp hormone: liệu pháp tránh thai nội tiết tố gồm thuốc tránh thai và vòng tránh thai giải phóng hormone, thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú. song nguy cơ này rất nhỏ và sẽ suy giảm sau khi ngừng sử dụng các liệu pháp tránh thai nội tiết tố.

Bác sĩ Giang dẫn các nghiên cứu cho xuất hiện tác động hỗn hợp của liệu pháp hormone với sức khỏe, thực hiện tăng nguy cơ mắc một vài chứng bệnh và suy giảm nguy cơ mắc các chứng bệnh không tương tự. Dù estrogen được sử dụng riêng lẻ thường phối hợp với progestin, các hormone này đều thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú. Nếu phụ nữ dùng liệu pháp hormone trong thời kỳ mãn kinh thì nên dùng trong thời gian ngắn nhất có thể. Phụ nữ nên hỏi ý kiến bác sĩ khi chọn lựa tránh thai và liệu pháp hormone điều trị các triệu chứng sau mãn kinh.

Tiền sử gia đình: Bạn có nguy cơ mắc chứng bệnh cao hơn nếu có mẹ hoặc chị gái mắc phải ung thư vú hoặc ung thư buồng trứng. Nguy cơ cao hơn nếu người thân bạn được chẩn đoán khi còn nhỏ.

Từng xạ trị vào vùng vú hoặc vùng ngực: Xạ trị vào ngực để điều trị ung thư thực hiện tăng nguy cơ ung thư vú, bắt đầu vào 10 năm sau khi điều trị. Nguy cơ ung thư vú phụ thuộc vào liều số lượng bức xạ và lứa tuổi, cao nhất nếu xạ trị được sử dụng ở tuổi mới lớn, khi ngực đang trở thành.

Phụ nữ có những thay thế đổi trong gene BRCA1 và BRCA2 nếu tiếp xúc với bức xạ như bức xạ từ chụp X-quang ngực có thể tăng thêm nguy cơ ung thư vú hoặc các chứng bệnh lý tuyến vú không tương tự.

Ung thư biểu mô tiểu thùy tại chỗ (LCIS): LCIS là các tế bào thất thường được tìm xuất hiện trong tiểu thùy hoặc các tuyến của vú. LCIS ở một vú thực hiện tăng nguy cơ tiến triển ung thư vú xâm lấn ở cả hai vú trong tương lai.

Mật độ vú: Mô vú dày đặc gây nên không dễ khăn cho việc phát hiện u bướu trên các xét nghiệm hình ảnh tiêu chuẩn như chụp nhũ ảnh. Mô vú dày đặc là tình trạng có nhiều tuyến sữa, ống dẫn sữa và mô nâng đỡ ở vú hơn là mô mỡ. Khi chụp nhũ ảnh, bác sĩ có thể không dễ phân biệt u bướu với mô nền thông thường nếu có mô dày đặc.

Đức Nguyên


Share this post:

Bài viết liên quan

Leave a Comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.